Trạng thái
Lịch Sử

Huyện An Phú trong sách lịch sử Đại Nam Thực Lục

Đại Nam thực lục (chữ Hán: 大南實錄) là bộ biên niên sử Việt Nam viết về triều đại các chúa Nguyễn và các vua nhà Nguyễn.

Đại Nam thực lục ghi chép các sự kiện từ khi chúa Nguyễn Hoàng trấn thủ Thuận Hóa (1558) đến đời vua Khải Định (1925) do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn.

Bản dịch của Viện Sử học liên kết với nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 2007 gồm:

  • Tập một, gồm: Tiền biên và Chính biên-Kỷ thứ nhất (từ 1558 đến 1819)
  • Tập hai: Chính biên-Kỷ thứ hai (từ 1820 đến 1829)
  • Tập ba: Chính biên-Kỷ thứ hai (từ 1830 đến 1833)
  • Tập bốn: Chính biên-Kỷ thứ hai (từ 1834 đến 1836)
  • Tập năm: Chính biên-Kỷ thứ hai (từ 1837 đến 1840)
  • Tập sáu: Chính biên-Kỷ thứ ba (từ 1841 đến 1847)
  • Tập bảy: Chính biên-Kỷ thứ tư (từ 1848 đến 1873)
  • Tập tám: Chính biên-Kỷ thứ tư (từ 1877 đến 1883)
  • Tập chín: Chính biên-Kỷ thứ năm (từ 1883 đến 1885)
  • Tập mười: Chính biên-Kỷ thứ sáu (từ 1885 đến 1888)

Download trọn bộ Đại Nam thực lục (大南實錄) tại đây:
https://sites.google.com/site/sachsuvietnam/dai-nam-thuc-luc

Đại Nam thực lục 大南實錄 bộ biên niên sử Việt Nam
Đại Nam thực lục 大南實錄 bộ biên niên sử Việt Nam


An Phú là một huyện thuộc tỉnh An Giang, nằm ở đỉnh cực Tây Bắc của vùng đồng bằng sông Cửu Long, giáp lãnh thổ Campuchia. Đây cũng là nơi tiếp nhận dòng chảy đầu tiên của sông Hậu và sông Châu Đốc từ Campuchia vào Việt Nam.

Dựa trên tài liệu của triều đình chúa Nguyễn có thể xác định: An Phú là một phần trong vùng đất Tầm Phong Long (Kompong Luong) mà vua Chân Lạp Nặc Tôn dâng cho chúa Nguyễn vào năm 1757.

**Đại Nam thực lục** (chữ Hán: 大南實錄) là bộ biên niên sử Việt Nam viết về triều đại các chúa Nguyễn và các vua nhà Nguyễn. Đại Nam thực lục ghi chép các sự kiện từ khi chúa Nguyễn Hoàng trấn thủ Thuận Hóa (1558) đến đời vua Khải Định (1925) do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn. Bản dịch của Viện Sử học liên kết với nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 2007 gồm: - Tập một, gồm: Tiền biên và Chính biên-Kỷ thứ nhất (từ 1558 đến 1819) - Tập hai: Chính biên-Kỷ thứ hai (từ 1820 đến 1829) - Tập ba: Chính biên-Kỷ thứ hai (từ 1830 đến 1833) - Tập bốn: Chính biên-Kỷ thứ hai (từ 1834 đến 1836) - Tập năm: Chính biên-Kỷ thứ hai (từ 1837 đến 1840) - Tập sáu: Chính biên-Kỷ thứ ba (từ 1841 đến 1847) - Tập bảy: Chính biên-Kỷ thứ tư (từ 1848 đến 1873) - Tập tám: Chính biên-Kỷ thứ tư (từ 1877 đến 1883) - Tập chín: Chính biên-Kỷ thứ năm (từ 1883 đến 1885) - Tập mười: Chính biên-Kỷ thứ sáu (từ 1885 đến 1888) Download trọn bộ Đại Nam thực lục (大南實錄) tại đây: https://sites.google.com/site/sachsuvietnam/dai-nam-thuc-luc ![Đại Nam thực lục 大南實錄 bộ biên niên sử Việt Nam](http://i.imgur.com/bnYwsCC.png) Đại Nam thực lục 大南實錄 bộ biên niên sử Việt Nam --- **An Phú** là một huyện thuộc tỉnh An Giang, nằm ở đỉnh cực Tây Bắc của vùng đồng bằng sông Cửu Long, giáp lãnh thổ Campuchia. Đây cũng là nơi tiếp nhận dòng chảy đầu tiên của sông Hậu và sông Châu Đốc từ Campuchia vào Việt Nam. Dựa trên tài liệu của triều đình chúa Nguyễn có thể xác định: An Phú là một phần trong vùng đất [Tầm Phong Long](http://www.nguoianphu.com/topic/22/dia-danh-tam-phong-long) (Kompong Luong) mà vua Chân Lạp Nặc Tôn dâng cho chúa Nguyễn vào năm 1757.

Chưa tìm được sự kiện liên quan tới An Phú trong các tập 1, 2, 3


Tập 04

Giáp Ngọ, năm Minh Mệnh thứ 15 [1834]

Khâm phái đốc biện công việc 2 tỉnh An – Hà là Đặng Chương cùng với Tổng đốc Trương Minh Giảng cùng đứng tên vào một tờ tấu, nói : “Sông Vĩnh Tế là đường thuỷ đi Hà Tiên tất phải đi qua, có một chỗ (ở thôn Vĩnh Tế) gần núi Sam, cách thành Châu Đốc độ 5 dặm, là nơi rất xung yếu, xin cho đặt 2 đồn ở 2 bên bờ, rồi sai dân Phiên ở Chân Chiêm coi giữ. Bờ bên đông sông Hậu Giang xế thành Châu Đốc có đồn Châu Giang cũng là một nơi xung yếu xin liệu sửa sang thêm, sai quan quân thủ sở canh giữ. Bên hữu thành Châu Đốc, từ núi Sam trở xuống, có một con đường bộ thẳng đến chân thành, (thành này do Nguyễn Văn Thuỵ đắp trước), xin đặt một đồn ở gần thành, ngoài đồn cắt một đoạn đường đào làm cái hào sâu, trên hào bắc một cái cầu để đi lại, lúc có giặc thì cắt cầu đi. Lại nữa, cái thành đất Châu Đốc, đã sửa làm hình vuông, chỗ còn lại dài hơn 200 trượng, cao xấp xỉ với thành, xin cắt đoạn giữa, để lại 2 góc trước và sau, chỗ gần bờ sông, nhân nếp cũ sửa đắp thêm, khi có giặc thì đặt súng để phòng bị”.

Vua chuẩn y lời tâu. Các đồn mới đắp đó cho lấy tên những thôn xã ở gần đấy mà gọi (ở hai bên bờ sông, 1 đồn gọi là Vĩnh Tế, 1 đồn gọi là Vĩnh Nguyên ; đồn ở góc bên hữu thành gọi là Chu Phú).

Chưa tìm được sự kiện liên quan tới An Phú trong các tập 1, 2, 3 --- ### Tập 04 Giáp Ngọ, năm Minh Mệnh thứ 15 [1834] Khâm phái đốc biện công việc 2 tỉnh An – Hà là Đặng Chương cùng với Tổng đốc Trương Minh Giảng cùng đứng tên vào một tờ tấu, nói : “Sông Vĩnh Tế là đường thuỷ đi Hà Tiên tất phải đi qua, có một chỗ (ở thôn Vĩnh Tế) gần núi Sam, cách thành Châu Đốc độ 5 dặm, là nơi rất xung yếu, xin cho đặt 2 đồn ở 2 bên bờ, rồi sai dân Phiên ở Chân Chiêm coi giữ. Bờ bên đông sông Hậu Giang xế thành Châu Đốc có đồn Châu Giang cũng là một nơi xung yếu xin liệu sửa sang thêm, sai quan quân thủ sở canh giữ. Bên hữu thành Châu Đốc, từ núi Sam trở xuống, có một con đường bộ thẳng đến chân thành, (thành này do Nguyễn Văn Thuỵ đắp trước), xin đặt một đồn ở gần thành, ngoài đồn cắt một đoạn đường đào làm cái hào sâu, trên hào bắc một cái cầu để đi lại, lúc có giặc thì cắt cầu đi. Lại nữa, cái thành đất Châu Đốc, đã sửa làm hình vuông, chỗ còn lại dài hơn 200 trượng, cao xấp xỉ với thành, xin cắt đoạn giữa, để lại 2 góc trước và sau, chỗ gần bờ sông, nhân nếp cũ sửa đắp thêm, khi có giặc thì đặt súng để phòng bị”. Vua chuẩn y lời tâu. Các đồn mới đắp đó cho lấy tên những thôn xã ở gần đấy mà gọi (ở hai bên bờ sông, 1 đồn gọi là Vĩnh Tế, 1 đồn gọi là Vĩnh Nguyên ; đồn ở góc bên hữu thành gọi là Chu Phú).

Tập 05

Canh Tý, Minh Mệnh năm thứ 21 [1840]

Quan tỉnh An Giang tâu nói : đồn canh Chu Giang hạt ấy có một cái đà [sông tránh] năm trước thuê dân đào từ bến sông tỉnh lỵ đến sông Hậu Giang gần với chỗ đồn, dài hơn 500 trượng. Dân sở tại là thôn Vĩnh Hậu tình nguyện lĩnh trưng nộp thuế (mỗi năm nộp 250 quan tiền), cái đà ấy gọi tên là Vĩnh Hậu đà. Vua y theo lời tâu ấy.

### Tập 05 Canh Tý, Minh Mệnh năm thứ 21 [1840] Quan tỉnh An Giang tâu nói : đồn canh Chu Giang hạt ấy có một cái đà [sông tránh] năm trước thuê dân đào từ bến sông tỉnh lỵ đến sông Hậu Giang gần với chỗ đồn, dài hơn 500 trượng. Dân sở tại là thôn Vĩnh Hậu tình nguyện lĩnh trưng nộp thuế (mỗi năm nộp 250 quan tiền), cái đà ấy gọi tên là Vĩnh Hậu đà. Vua y theo lời tâu ấy.

Tập 06

Tân Sửu, Thiệu Trị năm thứ nhất [1841], mùa hạ, tháng 5

Tha cho tên Yểm về Trấn Tây. Yểm từ năm ngoái, bị giải về Kinh, tống giam vào ngục trấn phủ. Đến đây, Tán lý Nguyễn Công Trứ mật tâu rằng : “Nước Cao Miên được triều đình trông nom đùm bọc đã lâu, lại đặt ra thành Trấn Tây để phòng giữ. Đã 8 năm nay, tốn phí tài lực không biết đâu mà kể, nhưng thổ binh thì không thể sai phái được, thổ dân thì không thể dạy dỗ được. Từ khi có việc binh biến đến nay, quan quân chết trận có đến hàng nghìn, cho đến súng đạn khí giới bị hao tổn, tiền lương chi phát ra, thuyền bè phải vận tải, công và tư đều hao tổn cả ! Ba Xuyên và Lạc Hoá cũng lần lượt không được yên tĩnh. Các tỉnh thuê bắt đòi gọi, nông và thương đều vất vả cả. Sự thế hiện nay khác với năm ngoái : vì năm ngoái, nhân dân do sự ngờ sợ mà sinh biến loạn ; năm nay đã có tên Giun làm tù trưởng, chí ở khôi phục lại nước, nên nhân dân đều một lòng liều chết. Tuy có quận chúa là Ngọc Vân, nhưng họ cho là hạng đàn bà không kể chi đến. Chỗ nào cũng đóng đồn họp quân, nương chỗ hiểm để chống lại. Việc sai người đi dò la hoặc dẫn đường, hai việc ấy đều không thể làm được cả. Từ Thuyết Nột cho đến các xứ Long Trưng, Sa An, Cổ Tiêu và Long Sơn, hai bên bờ bắn xuống, ngăn giữ sự qua lại. Vả lại, thành Trấn Tây nhỏ bé, không thể dùng để giữ được, phải lấy con đê làm thành ngoài, mà đồ dùng để sửa đắp cũng không được bền chặt. Nay đến mùa nước lớn, nước sông chảy xiết, ngay như đối ngạn bên kia sông là đất Nhu Viễn và La Kết, lỡ ra có việc khẩn cấp đi lại còn không tiện, huống chi đến các nơi xa ? Thành Trấn Tây bốn mặt đều phải đối địch với giặc, ứng tiếp không chu, nếu một phen không dùng đến đại binh thì không bao giờ xong việc được. Nói cho đúng, quân nhiều phải tốn nhiều, nhưng cũng chỉ thêm cho sự tốn phí mà thôi. Vì rằng, dù lấy được đất ở nơi ấy, cũng không thể cày cấy được, dù lấy được dân ở xứ ấy, cũng không sai khiến được. Song, đã sửa sang xếp đặt, công lao khi trước không nên bỏ đi cả. Nên nhân theo tình thế mà làm cho được việc. Năm trước, tên Yểm đã bó tay nộp mình, mong làm tôi tớ triều đình, nhờ lượng tiên đế, tuy đem giam cấm, nhưng vẫn hậu cấp cho tiền lương. Nay hoàng thượng nối ngôi, ơn trạch rộng ban, dù kẻ tử tù cũng được khoan giam. Vậy xin ban sắc Chỉ giao tên Yểm cho thành Trấn Tây trông coi. Y đã được tha về, thì đồ đảng của y cũng lần lượt ra thú. Đồ đảng đã chia rẽ, tất ngờ vực lẫn nhau, ta không còn phải lo về sau nữa, có thể đi thẳng một đường, dùng người Man để chiêu dụ người Man, bắt họ phải nơi nào giữ nơi ấy cho được yên. Còn kẻ nào cố chấp mê hoặc bướng ngạnh không chịu theo thì đánh giết cho một trận kịch liệt. Như thế là lấy tôi tớ của triều đình làm người sai khiến của triều đình”.

Sớ này được giao xuống cho đình thần bàn. Đình thần đều cho rằng bọn Ngọc Vân là con của phiên vương Chăn ngày trước, mà bọn di dân của y còn không chịu quy phục, huống chi tên Yểm mới đầu hàng quy thuận, dù nay có được tha về chăng nữa, bọn thổ dân cũng chưa chắc đã vì cớ tên Yểm mà bỏ hay theo triều đình. Song, tên Yểm ở Kinh, cũng là một tên tù giam, giữ lại cũng không có ích gì. Tán lý thần ((1) Chỉ Nguyễn Công Trứ.1) đã cố xin tha cho nó về, hoặc giả cũng có thể giúp cho chiêu phủ được một phần nào. Vậy xin hãy tạm tháo xiềng xích, giải về Trấn Tây, cho được tự đi chiêu tập bọn thổ dân. Còn công việc ở ngoài biên cương xin giao cho bọn Kinh lược và Tướng quân phải trù tính cho chín chắn mà làm. Không được hoàn toàn chắc bằng ở tên Yểm, cũng không được mượn cớ ấy mà đóng quân lâu ngày làm cho nhụt bớt khí thế của quân lính, có điều không tiện.

Lời bàn ấy dâng lên, vua phê bảo rằng : “Quần thần đã đồng ý, ta cũng tạm chuẩn y, nhưng phải cẩn thận công việc, đừng để có hối về sau”. Vua bèn sai bộ Hình mở xiềng xích tha cho Yểm, rồi cho đáp thuyền công đưa về Trấn Tây.

Trước kia, khi Yểm quy thuận, họ hàng thân thuộc đến hơn 9.000 người đều bị chia cho ở tại các tỉnh Nam Kỳ ; đến đây, tha cả cho được đoàn tụ với nhau. Duy có con trai tên là Bướm vẫn phải an trí ở tỉnh Khánh Hoà. Các tư sản của Yểm mang theo khi trước, lưu lại ở Gia Định, nay đều trả lại đủ số, duy có súng và đồ binh thì nộp vào làm của công.

Tân Sửu, Thiệu Trị năm thứ nhất [1841], mùa hạ, tháng 6

Tháng 9, quan quân ở Trấn Tây rút về đóng giữ ở tỉnh An Giang. Ngày hôm ấy, Trương Minh Giảng chết. Trước đây, công việc sửa sang ở Trấn Tây, công của Minh Giảng nhiều hơn cả. Đến đây, rút quân về, trong lòng uất ức, vừa xấu hổ vừa tức bực, cáo ốm không tiếp các tướng hiệu, về đến An Giang thì chết. Bọn Phạm Văn Điển và Nguyễn Công Trứ đem việc Giảng ốm chết tâu lên.

Vua nghe tin Giảng chết, phán rằng : “Giảng đảm đương sự ký thác nặng nề, chỉ vì việc trị dân và chống giặc không đúng phương pháp, cho nên thổ dân cùng nổi lên làm loạn, để triều đình phải bận đến việc phái quân đi tiễu bắt, đã lâu ngày mà chưa xong việc. Đã giao cho bộ nghiêm ngặt nghị tội. Không ngờ đại binh vừa mới về đến nơi, đã ốm chết rồi. Ta nghĩ : Giảng năm trước đây, làm Tham tán quân vụ, khiến giặc ở Biên Hoà và Vĩnh Long sợ mất vía, lại đánh được quân Xiêm ở Thuận Cảng. Công trạng rõ rệt, khắc vào bia đá cũng không thể mất được. Chuẩn cho truy đoạt lại chức Trấn Tây Tướng quân, để cho rõ tội, nhưng gia ơn cho chiếu theo phẩm hàm Đại học sĩ mà cấp cho tiền tuất ; lại thưởng cho 5 cây gấm Trung Quốc, 5 cây sa các màu, 20 tấm lụa, 30 tấm vải và 1 000 quan tiền, tha cho không phải truy nghị tội nữa. Lại thu lại lương bổng hàm thất phẩm chi cho con trai là Trương Minh Thi khi trước.

Cho bọn Phạm Văn Điển, Nguyễn Công Trứ, Đoàn Văn Sách, Nguyễn Công Nhàn và Cao Hữu Dực được giữ nguyên hàm quản lĩnh quan quân đóng giữ ở An Giang, hiệp đồng với nhau bàn công việc làm. Còn các chức hàm về kinh lược, tham tán, tán lý, đề đốc và hiệp tán ở Trấn Tây của các viên này đều phải cách và thu lại cả ; những ấn triện quan phòng, cờ bài, cờ rồng và ấn quan phòng hai đạo binh lương đều đem về bộ nộp lại. Các viên dịch trong ty An biên khi trước, thì chia bổ vào những chân khuyết thông phán và kinh lịch ở sáu tỉnh Nam Kỳ ; còn số thừa thì rút về Kinh có khuyết đâu sẽ bổ”.

Bố chính tỉnh An Giang là Phùng Nghĩa Phương ốm, cho Cao Hữu Dực quyền lĩnh ấn triện Phiên ty ((1) Phiên ty : tức là Bố chính, cũng như Niết ty là án sát1). Quan quân đã về tỉnh An Giang, bọn Phạm Văn Điển phân phái các biền binh đi phòng giữ những nơi hiểm yếu lợi hại. Trước tiên sai Đoàn Văn Sách và Nguyễn Công Nhàn trích lấy 3.000 quân đi đến phủ Lạc Hoá để hội tiễu. Cho bọn quận chúa là Ngọc Vân đến ở tại thôn Chu Phú, phái người coi giữ.

Định tội các tướng hiệu ở Trấn Tây. Bộ Hình đệ án tâu lên, khép Cao Hữu Dực, Phạm Văn Điển và Nguyễn Công Trứ vào tội trảm giam hậu, từ Lê Văn Đức và Nguyễn Tiến Lâm trở xuống cứ theo thứ tự, giảm tội dần.

Vua cho rằng trong buổi đi đánh dẹp, còn mong họ lập công báo đáp về sau, bèn giáng Hữu Dực làm Tư vụ bộ Hình, quyền lĩnh án sát tỉnh An Giang ; Phạm Văn Điển thì cách chức hàm Tả quân Chưởng phủ, giáng làm Chưởng vệ, nhưng cho cách lưu ((1) Cách lưu : bị cách chức nhưng được lưu lại làm việc.1) quyền lĩnh Tổng đốc An – Hà ((2) An Giang và Hà Tiên.2) vẫn được giữ tước hầu ; Nguyễn Công Trứ thì cách chức hàm thự Tả đô ngự sử kiêm Tham tri bộ Binh, giáng làm Lang trung bộ Binh, nhưng cho cách lưu, quyền lĩnh Tuần phủ An Giang ; Đinh Văn Huy giáng làm Viên ngoại lang bộ Hình, lĩnh án sát Hà Tiên ; nguyên Tuyên phủ sứ Hải Đông là Trần Văn Thông giáng làm Lang trung bộ Binh, lĩnh Bố chính Hà Tiên ; Lê Văn Đức và Nguyễn Tiến Lâm không phải chuyên làm việc ở Trấn Tây từ trước đến sau, đều phải giáng 3 cấp, được lưu nhiệm ; nguyên sung chức Bang biện là Doãn Uẩn mới làm việc ở Trấn Tây có ít ngày, được tha không bàn tội ; Nguyễn Công Nhàn và Đoàn Văn Sách đều phải giáng 2 cấp, được lưu nhiệm.

Vua dụ rằng : “Công việc ở hạt Trấn Tây xếp đặt đã lâu năm, ta lúc mới nối ngôi, không biết lo xa thấy trước cho nơi biên cảnh được yên. Tuy là tội của các biên thần không làm được công trạng gì, nhưng về phần ta cũng đáng nên hậm hụi. Chỉ vì sự thế ngày nay, phải đành làm hạ sách ấy, để đến sau sẽ liệu cách khác làm cho dân ta được yên. Chịu chung tiếng chê trách với các biên thần, để cho thiên hạ đều biết cái lỗi của ta. Nay vua tôi đều phải nên cố gắng gia sức, mưu tính công việc về sau cho được tốt, chớ lấy việc bị giáng truất ấy mà nản lòng. Ngày báo đáp cho nước còn dài, đều phải nên cố gắng”.

Lại sai Phạm Văn Điển và Nguyễn Công Trứ đến ngay quân thứ phủ Lạc Hoá hội đồng chia đi tiễu dư đảng giặc.

Quyền lĩnh Bố chính tỉnh An Giang là Cao Hữu Dực phái người đi dò xét tình hình của giặc, rồi tâu rằng : “Bọn thổ phỉ từ trước đến nay phần nhiều khổ về không đủ muối và cau. Hiện nay bọn Xiêm Man chia nhau đóng đồn ở Tượng Sơn, Sâm Sơn ; quân của tên Giun và Chất Tri có 10.000 người đóng ở Vĩnh Long, quân của Xiêm có 10.000 người đóng ở Khai Biên ; quân người Trung Quốc và người Thổ của phỉ mục là Trần Lâm ước 5.000 người đóng ở Sốc Trăn, Trà Tâm, Mã Tộc, Chông Sách, đặt đồn để chống giữ”.

Vua dụ rằng : “Tình hình đói khổ của bọn thổ phỉ cũng có thể biết được đại khái rồi. Quân Xiêm đóng đồn ở đấy đến gần 25.000 người thì lấy lương vào đâu ? Lẽ nào tụ họp lẩn lút rất nhiều người mà lại không hề đến quấy nhiễu một lần nào ư ? Câu nói phần nhiều là đồn đại hão, không thể tin chắc được. Duy có những nơi giáp giới nào quan yếu, cũng nên phái người đến thăm dò cho kỹ, để biết rõ tình hình hư thực của giặc mới được”.

án sát Nguyễn Thế Trị lại tâu rằng : “Các cơ An biên và An man thuộc trong tỉnh hạt, mà những thân thuộc của thổ binh, thổ dân và thổ mục nhiều đến hơn 1.000 người, sợ rằng bọn họ ngoài mặt thì phục tùng, mà trong bụng lại khác chăng. Xin phái đại viên đem biền binh đến chia đóng ở các đồn phủ Chu Giang, Tân Châu và An Lạc”.

Vua cho câu nói của Thế Trị phần nhiều là hoảng hốt nhát sợ, quở rằng : “Bọn chúng ở đấy tức như là con vượn trong cũi, con chim trong lồng, còn dám nghĩ đến chuyện khác, hà tất phải lo ngại quá thế ? Huống chi các đồn Chu Giang đã phái binh đến đóng giữ rồi, ngươi còn chưa biết ư ! Truyền giáng 1 cấp để làm răn cho những kẻ hèn nhát”.

Đổi bổ Nguyễn Tri Phương làm Tuần phủ Vĩnh Long, hộ lý ấn quan phòng của Tổng đốc Long – Tường, nhưng hiệp với quan quân các đạo đi đánh dẹp ; nguyên án sát An Giang là Nguyễn Thế Trị đổi bổ làm án sát Vĩnh Long ; nguyên án sát Hà Tiên là Hoàng Mẫn Đạt vì kiến thức tầm thường, làm việc hoảng hốt lầm lẫn, chuẩn cho gọi về Kinh, do bộ giáng cấp bổ chức khác. Rồi về tỉnh Hà Tiên có biến động, lại cho lưu lại tỉnh ấy, tuỳ việc sai phái.

Nguyễn Tiến Lâm và Nguyễn Tri Phương đem quân đến Hậu Giang tiến đánh các sốc ở sông chính Bông Bọt, đánh được quân giặc, lấy luôn được 5 đồn sở, bọn người Kinh, người nhà Thanh đến đầu hàng ở quân thứ 88 người ; lại sai người đi chiêu dụ bọn thổ dân, các đàn ông đàn bà người nào ra thú đều cấp cho gạo công và tha cho về. Rồi lại đem quân đến đánh sốc Trà Điêu, bọn giặc thua chạy, ta bắt được 25 Thanh phỉ và 1 thổ phỉ, đều đem chém cả, thu được thóc gạo tích trữ của giặc đem cấp phát cho dân nghèo.

Vua khen rằng : “Vừa dẹp giặc, vừa vỗ dân, làm một lần mà được cả hai việc”. Thưởng cho Nguyễn Tiến Lâm và Nguyễn Tri Phương mỗi người 1 cái nhẫn vàng khảm thuỷ tinh ; Tôn Thất Nghị 1 cái nhẫn vàng có mặt bằng hạt đỏ ; dưới tên trong sổ khi trước có chua là phải giáng thì nay cho khai phục lại 2 cấp. Còn những người nào dự có công trạng đều được thăng bổ và thưởng cho có thứ bậc.

Vua lại dụ rằng : “Bắt sống bọn giặc được 26 tên mà thổ phỉ chỉ có 1 đứa, còn thì đều là người nhà Thanh cả, không khỏi có mối ngờ. Vả lại, trong khi ra trận, tất phải nghiêm sức cho các biền binh phải phân biệt dân với giặc, nếu bọn giặc có kẻ nào cầm khí giới chống lại quan quân, đương trường bắt chém được, mới có thể kể là công trạng, đừng để cho họ giết người bậy, nhận công liều, đem cả những người ốm yếu già lão, trẻ con và dân chúng lương thiện đi tránh nạn, giết phứa cả để lấy thưởng, thành ra lại mắc vào tội. Cái gương của Dương Văn Phong khi trước không xa gì. Còn những thứ tích trữ của giặc mà mình lấy được, cũng nên kiểm điểm để cấp lương cho quân, còn số thừa thì đem chia cấp cho dân nghèo, nhất thiết không nên để cho bọn mưu lợi được lấy của công làm việc riêng, tự tiện đem bán đi”.

Nhâm Dần, Thiệu Trị năm thứ 2 [1842], mùa xuân, tháng 1

Đảng nguỵ ở Nam Vang (tức là kẻ nguỵ xưng hoàng tôn) đem cả quân Xiêm, Lào 5.000 người lẻn đến Sách Sô (thuộc phủ hạt Nam Ninh), lại có hơn 10 chiếc thuyền thổ phỉ đến đồn Cần Thăng dòm dỏ. Tổng đốc An – Hà Phạm Văn Điển phi tư cho Đoàn Văn Sách quản lĩnh biền binh đến ngay Hà Tiên sắp đặt công việc, Nguyễn Công Nhàn ngăn giữ đồn Vĩnh Thông, Nguyễn Công Trứ chuyển đi tuần tra ở Tiền Giang. Điển vẫn lưu lại An Giang sắp xếp mọi việc.

Vua nghe biết việc ấy, nói : “Kẻ phạm nguỵ xưng, cũng chỉ là nghe có tin đồn. Hoặc giả chúng biết rằng Ba Xuyên đã dẹp yên, đường sông Vĩnh Tế lại bị quân ta ngăn giữ, bọn giặc tàn ở Thất Sơn không còn nơi trốn thoát ; muối, gạo ở Ba Xuyên không chuyển vận đi được, chúng mới đem những đồ vô lại đặt ra danh mục nguỵ lừa dối bọn buôn gian để hòng kiếm thức ăn. Cái nghề hèn mọn như con lừa ở đất Kiềm((1) Kiềm : là đất Quý Châu ở Trung Quốc, xưa không có giống lừa, có người tải một con lừa đến, thả ở chân núi ; hổ trông thấy, trước còn khiếp sợ, sau rồi lần đến bên, biết rằng lừa chỉ có một nghề đá, bèn cắn chết. Người ta cho những kẻ có nghề vụng kém, cũng như con lừa ở đất Kiềm (Kiềm lư chi kỷ).1) ấy, có làm gì được ! Nhưng việc này quan hệ về biên phòng, có chuẩn bị thì khỏi phải lo”. Vua bèn dụ cho thự Tổng đốc Nguyễn Tri Phương sửa soạn binh thuyền sẵn, đợi có tin khẩn báo ở Hà Tiên thì lập tức đem binh thuyền cùng với Lãnh binh Nguyễn Văn Hoàng hoặc Vũ Đình Đàm đi sang để chống giữ. Bọn Lê Văn Đức ở Gia Định, Trương Văn Uyển ở Định Tường cũng đều phải chỉnh bị quân, nuôi sức mạnh và thông tin cho những viên đóng giữ 2 đồn Thông Bình, Tây Ninh phải dò xét tình hình hư, thực của giặc. Lại dụ Phạm Văn Điển và Nguyễn Công Trứ rằng : “Công Trứ trước ở Hà Tiên đã từng xin trở về mau dẹp Thất Sơn để cho yên hết mọi trở ngạnh ở sau sông Vĩnh Tế. Trẫm đã chuẩn y lời xin ấy. Thế mà động gặp bọn giặc linh tinh, đều không dám tiến đánh, lại đặt đồn, đắp luỹ, chỉ làm mệt sức quân, rồi trở về An Giang lần lữa không tiến, lờ mờ không có chủ định như thế, còn ngày nào làm xong việc được ! Theo tình hình hiện nay, nếu xét thấy bọn giặc quả thực mắc mưu lừa dối (của kẻ phao tin) thì nên liệu để biền binh ngăn giữ, rồi họp cả những binh hùng mạnh ở các đại đội tiến đánh, diệt hết bọn giặc tàn ở Thất Sơn, khiến cho chỗ ấy chóng được yên hẳn. Như vậy, các thuyền giặc ở ngoài biển và những bọn giặc linh tinh nghe oai tất phải trốn xa ; không nên nhất nhất chia quân đi chống giữ, thành ra tính lầm !”.

Ngay sau đó, Nguyễn Tri Phương lại tâu lên rằng : “Các tỉnh ở Nam Kỳ đều giáp liền với cõi giặc, duy dải sông Tiền Giang là lối thông vào giữa ruột các tỉnh An Giang, Vĩnh Long, Định Tường, xin đem binh thuyền đi tới các đồn Thông Bình, Hùng Ngự (thuộc tỉnh Định Tường), Tân Châu, An Lạc (thuộc tỉnh An Giang), tỏ rõ binh uy để cho giặc biết có phòng bị nghiêm cẩn”. Vua khen rằng : “Việc làm rất phải ! Chính hợp với thời cơ”.

Bố chính tỉnh An Giang là Phùng Nghĩa Phương bị bệnh. Vua cho viên án sát Gia Định là Lê Quốc Trinh quyền lĩnh chức Bố chính An Giang, lại cho Hộ khoa Chưởng ấn Cấp sự trung Lê Chân thăng thự Lang trung bộ Hộ, quyền lĩnh án sát tỉnh Gia Định. Chưa bao lâu, Nghĩa Phương khỏi bệnh, Quốc Trinh lại trở về lỵ sở cũ, Lê Chân lại về Kinh cung chức.

Cho : thự Phó vệ uý Tả vệ dinh Long võ Tống Bẩm điệu bổ là thự Phó vệ uý Hữu vệ nhị dinh Vũ lâm ; Phó vệ uý Tiền vệ dinh Tiền phong Phan Công Thành làm Phó vệ uý Tả vệ dinh Long võ ; Phó vệ uý vệ Hổ oai Lê Tô làm Phó vệ uý vệ Tiền dinh Tiền phong ; Phó vệ uý vệ Hổ oai nhất Nguyễn Lợi làm Phó vệ uý Hậu vệ ; Phó vệ uý Tả vệ dinh Tiền phong Nguyễn Thanh thăng thự Vệ uý Tiền vệ dinh Hùng nhuệ ; nguyên thự Phó vệ uý Nguyễn Hữu Lợi đổi bổ làm thự Phó vệ uý Tiền vệ dinh Long võ.

Tổng đốc An – Hà là Phạm Văn Điển và lĩnh Tuần phủ An Giang là Nguyễn Công Trứ tâu lên rằng : “Tỉnh Hà Tiên thám biết : tên thổ phỉ Phi Phủ họp binh ở Chân Sâm, muốn đến sông Vĩnh Tế quấy nhiễu, những thuyền của bọn đầu mục giặc đóng ở phận biển Quảng Biên hẹn nhau chia 2 đường thuỷ bộ đến đánh Hà Tiên. Về phận sông Ba Nam, 2 bên bờ đều có đồn trại, thuyền bè của bọn thổ phỉ, mưu định gây việc. Vả lại, bọn thổ phỉ ở Ba Xuyên, Thất Sơn chưa trừ hết, mà ở Hà Tiên, Tiền Giang có tin báo nguy cấp ấy thì những đồn Đa Phước, Lô Khu ở Hậu Giang, đồn Cần Thăng ở Cam La và những đồn Tiên Nông, Vĩnh Điền ở Vĩnh Tế không thể không phòng bị trước cho nghiêm cẩn. Vậy xin lưu những biền binh vẫn đóng trước và những binh mới đóng, mới đưa đến, cứ theo các đạo để đủ sai phái”. Vua nghe theo.

Vua lại dụ rằng : “Phạm Văn Điển và Nguyễn Công Trứ đều là bề tôi có tiếng đã lâu, trước ở Trấn Tây, giữ mãi không thành, mặc cho bọn thổ phỉ lan khắp, đến khi về An Giang, mong những trước dẹp Ba Xuyên, sau đánh Thất Sơn, tuyệt đường đi lại kiếm chác của giặc, và cho quân dân nghỉ ngơi, ngồi chặn chỗ hiểm yếu để cho quân giặc tất đến phải chết. Thế mà đến nay, ở Ba Xuyên chưa quét sạch hết, ở Thất Sơn không tiến được bước nào, và cứ sai đi do thám lung tung, không được tin gì đích xác ! ở quân, động một tý là hấp tấp : nay dựng đồn lớn, mai đắp luỹ to, việc nhiều, sức mệt, không lúc nào thôi (tháng chạp năm trước, Nguyễn Công Trứ làm tờ tâu xin đặt 2 đồn Tiên Nông, Vĩnh Điền, lại sửa đắp luỹ dài ở 2 đồn ấy), như vậy, không chút nắm vững, cử động trái ngược, chỉ làm cho quân giặc coi khinh mà thôi. Sao không nghĩ : thuyền giặc nghênh ngang ngoài biển đã gần 3 tháng, lúc tiến lúc lui, chưa từng một lần nào cùng với Hà Tiên đối địch, thì chẳng qua chúng khoe thanh thế hão, có thể thấy rõ nghề mọn như con lừa của chúng thế là đã cùng. Huống chi, binh ở Hà Tiên đã có hơn 3.000 người, lại có đạo binh của Đoàn Văn Sách đến tập hợp, pháo đài ở Kim Dữ đặt cao, bắn xa ; bọn kia dù có đến trăm vạn quân thuỷ cũng không thể bay sang được, mà kẻ phạm nguỵ xưng ở Ba Nam ngu dại không biết, vẽ trò trẻ con, há lại dám vô cớ đến nộp mạng sao ? Vả lại, tỉnh An Giang nhiều lần cắt quân đến và các tỉnh phái binh sang, số binh không kém vài vạn, nếu bọn chúng dám đến thì tình hình chủ với khách khác nhau đã rõ, há không đủ sức diệt bọn ấy rồi ăn cơm sáng [cũng vừa], hay sao ? Nay xa giá Bắc tuần, trẫm nghĩ đến chỗ trọng địa biên thuỳ, mùa đông năm ngoái đã phái sẵn 8 vệ quân hùng mạnh và thêm biền binh sung sức ở 2 vệ cơ Nam, Ngãi đi đóng giữ Gia Định, Định Tường trước. ở Kinh, lại chỉnh bị sẵn thuyền lớn bọc đồng, binh khí tinh đủ, nếu có khẩn cấp, thuận dòng xuống Nam, chẳng qua trong khoảng một tuần cũng có thể kịp việc. Các ngươi đều là bề tôi quen thạo chinh chiến, cần thiết là nên giữ yên lấy lòng người. Việc biên phòng cố nhiên không thể sơ suất, nhưng cũng không thể vội tin những tin do bọn thám tử nhặt sai. Phải nên xét kỹ mà làm, khiến giặc sợ oai, trốn xa, để khỏi mối lo cho triều đình về mặt Tây, thế mới xứng đáng với sự uỷ thác. Nên cố mà làm”.

Nhâm Dần, Thiệu Trị năm thứ 2 [1842], mùa xuân, tháng 2

Bọn thổ phỉ đến quấy nhiễu đồn Thông Bình (thuộc tỉnh Định Tường), lại đắp đồn ở xứ Chi Ty ngăn chặn sông nhánh, đường quan báo bị nghẽn. Thự Tổng đốc Long – Tường Nguyễn Tri Phương được tin, liền đem 800 biền binh tiến đến sốc Chính Đôn, giặc đến đón đánh trước, quan quân 2 mặt thuỷ bộ giáp công, giặc bỏ đồn tan chạy. Quan quân bắn chết được 26 tên, liền sai phá huỷ đồn giặc, khai thông đường sông bị chặn trước, lại đắp đồn ở xứ Chi Ty, đặt tên là đồn Cửu An, trích quân đóng giữ để làm nơi tiếp viện cho những đồn Thông Bình, Hùng Ngự. Bỗng tiếp tin các đồn trại ở Tiền, Hậu Giang và sông Vĩnh Tế, thổ phỉ kéo ùa đến quấy nhiễu, Nguyễn Tri Phương lại đi gấp sang An Giang, cùng với bọn Phạm Văn Điển hội hợp đánh dẹp. Vua cho rằng : Tri Phương đi chuyến này đúng với cơ hội, tuy không bắt được tướng giặc, chém được đầu giặc, nhưng có trận được vừa rồi cũng đủ làm cho thanh thế vang dội, bèn thưởng cho quân công kỷ lục 2 thứ và 1 đồng kim tiền. Các tướng sĩ tham dự trận này đều được ban thưởng có thứ bậc.

Sai Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Tiến Lâm án ngữ sông Tiền Giang ; Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Công Nhàn án ngữ sông Vĩnh Tế ; Phạm Văn Điển, Nguyễn Lương Nhàn án ngữ mặt Hậu Giang. Trước đây, tại An Giang vì số binh trong tỉnh chia phái đi nhiều ngả, nên mới tư cho quân thứ Ba Xuyên phái binh đến giúp. Bọn Nguyễn Tiến Lâm lấy cớ vì chưa tiễu diệt được hết thổ phỉ, không chịu đến giúp, vua nghe biết việc ấy, phạt giáng Nguyễn Tiến Lâm, Nguyễn Lương Nhàn và Tôn Thất Nghị xuống 2 cấp, lưu tại chức, và sai phải đi ngay sang An Giang hội hợp đánh dẹp. Lúc ấy thổ phỉ kết bọn hàng trăm, hàng nghìn, vây quanh các đồn Tân Châu, An Lạc, Hùng Ngự, Thông Bình, phá luôn huyện lỵ Đông Xuyên. Vua lại sai Tri Phương, Công Nhàn chia đường đến án ngữ, đều do tổng thống, tham tán và tán lý đại thần xem xét công việc mà cắt đặt.

Nhâm Dần, Thiệu Trị năm thứ 2 [1842], mùa xuân, tháng 2

Bọn Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Công Nhàn tâu lên rằng : “Tại dải sông Vĩnh Tế, bên hữu ngạn từ Vĩnh Thông đến Tiên Nông, bên tả ngạn từ Vĩnh Lạc đến Tĩnh Biên, bọn thổ phỉ kết đồn trại liên tiếp, thừa dịp vây bắn vào Tân Châu, An Lạc ở Tiền Giang, Đa Phước, Cần Thăng ở Hậu Giang, càng ngày càng vây bức mà hiện số quân ta có ít, phòng giữ không đủ. Còn ở Hà Tiên hiện nay đã hơi thư việc, chúng tôi đã tư cho Đoàn Văn Sách chuyển về giúp sức đánh dẹp. Nhưng Sách cho rằng thuyền giặc hãy còn đỗ ở ngoài biển Quảng Biên, hiện Sách đương chỉnh quân sắp thuyền tuỳ cơ tiến đánh, chứ không chịu trích phái quân đi giúp. Chúng tôi trộm nghĩ : Sách làm việc ấy có 3 điều bất tiện : 1. Trong khi đại giá ra Bắc, không nên vội khai mối hiềm khích với nước bên ; 2. Có bọn giặc to ở sau lưng mà lại vượt xa ra ngoài biển ; 3. Vĩnh Tế là đường sau tỉnh Hà Tiên, nếu bị cắt đứt thì Hà Tiên không thể giữ được. Cân nhắc cho thích hợp trước, sau, hoãn, cấp, thì nên chuyển về An Giang, đợi cho đường sau dẹp yên, rồi hãy tuỳ cơ tiến đánh”. Vua thấy tâu, quở trách rằng : “Giặc Xiêm hôm nọ bị quan quân Hà Tiên chặn đánh, đã sợ oai, đêm trốn, thì ngoài ra, các đường Tiền, Hậu Giang, Vĩnh Tế chẳng qua là bọn giặc tàn linh tinh, chắc rồi cũng phải tan chạy. Huống chi giặc Xiêm vô cớ cất quân xằng bậy, giúp bọn làm càn, chính nên thừa lúc chúng thua chạy về, đánh riết một phen để chúng vĩnh viễn không dám lại tới dòm dỏ. Sao bảo là “khai hiềm khích với nước bên”, mà nêu ra 3 điều không tiện ? Thật đáng khinh bỉ ! Lại như một đường Vĩnh Tế trước chỉ có 1 Nguyễn Công Nhàn đóng giữ cũng còn chặn được nơi hiểm yếu để giữ vững. Nay đã có Nguyễn Công Trứ lại có Tôn Thất Nghị đem binh tiếp đến, chắc đã thừa sức, lại còn muốn Đoàn Văn Sách đến cùng họp một chỗ, sao kiến thức kém đến thế ? Phải biết : kẻ khéo giữ thì địch không biết lúc nào mình đánh. Nay theo một dải sông dài, đo đất chia người, ven bờ đóng giữ, há chẳng làm cho binh mệt sức mà tỏ cho người biết là mình nhát sao ? Công Trứ, vốn gọi là biết dùng binh, sao lại tính đến thế, thật không thể hiểu !”. Rồi đó, Công Trứ mắc bệnh, vua cho Nguyễn Công Nhàn kiêm lĩnh cả số binh, liệu cơ phòng giữ hoặc tiến đánh. Không bao lâu, Sách cũng bị bệnh, cho về An Giang điều dưỡng, sai Nguyễn Lương Nhàn đến thay.

Nhâm Dần, Thiệu Trị năm thứ 2 [1842], mùa xuân, tháng 3

Tổng đốc An – Hà là Tín Vũ hầu Phạm Văn Điển đánh phá tan quân thổ phỉ ở Hậu Giang. [Trước đây] quân Xiêm đã lui, bọn thổ phỉ lại đến chỗ thượng lưu đồn Đa Phước, hai bên tả, hữu theo các bụi tre dựng lên đồn luỹ, bày hàng thuyền, xuồng. Quân giặc có độ hơn 3.000 tên, dựa vào chổ hiểm để chống giữ. Điển cho rằng bọn đầu mục của giặc phần nhiều ở tả ngạn, ta đánh phá các đồn ấy trước thì những đồn ở hữu ngạn không đánh cũng tự vỡ, bèn sai bọn sung thí Phó vệ Trần Kim, Quản cơ Lê Đình Lý, Vệ uý Nguyễn Văn ổn chia lĩnh hơn 1.000 biền binh, trước hết đến đồn giặc ở tả ngạn, thuỷ bộ 2 mặt giáp đánh. Trần Kim lên đồn giặc trước, binh đinh chỉ có 20 người, Kim liền tay đâm 2 tên, chém được 1 đầu giặc, quyền thí Suất đội Trần Linh cũng chém được 1 đầu. Bọn giặc kéo ùa lại đánh rối loạn. Kim bị giặc chém vào vai bên tả, gãy xương ; Linh cũng bị đạn xuyên vào hông bên tả. Ngoại uỷ đội trưởng Nguyễn Mô, tay cầm dao, đến tiếp cứu ; dao bị gãy, Mô lại cầm chuôi dao đánh 1 tên giặc chết luôn, rồi che đỡ cho Kim và Linh ra khỏi trận. Lê Đình Lý, Nguyễn Văn ổn tiếp đến, hợp sức giáp đánh, giặc đều tan chạy. Quân quan lại sang đồn giặc bên hữu ngạn, đánh tràn. Giặc đều bỏ chạy. Lập tức phá huỷ các đồn luỹ, chia đường theo bắt giặc, thu được rất nhiều khí giới. Nghe tin thắng trận, vua phê bảo rằng : “Tín Vũ hầu được đại thắng, rất đáng khen ngợi, thật không phụ là một viên tướng lão luyện thời nay !”

Lập tức truyền dụ cho hoàng tử, đại thần lưu Kinh rằng : “Giặc Xiêm trái trời, ngược lẽ, gây bậy mỗi hiềm, kết bè với Lạp Man dồn quân ở nước vào lấn cướp, trẫm đã trù tính trước khi xảy việc, sai tướng phòng giữ biên cương. Trước đây, giặc bị Đề đốc Vĩnh Long, Anh dũng tướng Đoàn Văn Sách, bắn giết ; đường thuỷ đều yên tĩnh. Nay An – Hà Tổng đốc Tín Vũ hầu Phạm Văn Điển đánh phá quân Xiêm, Thổ, dẹp yên đường bộ. Lòng trẫm rất vui mừng ! Từ nay, biên cương được yên, tướng sĩ được nghỉ ngơi, thật toàn nhờ về uy Phước của tổ khảo ta để lại cho đó !”. Rồi vua sai Vệ uý vệ Kim ngô Lê Viết Chuyên mang cờ đỏ đi tuyên bảo khắp nơi, lại sai đưa về Kinh để cho trong ngoài đều được biết rõ. Thưởng cho Phạm Văn Điển 1 đồng kim tiền Song long hạng trung có dây đeo, 1 chiếc nhẫn vàng mặt thuỷ tinh liên châu và gia quân công 1 cấp ; thưởng thụ cho Trần Kim chức Phó quản cơ, gia quân công 1 cấp, kim tiền hạng nhỏ và nhẫn vàng mỗi thứ 1, lại 1 chiếc tử kim bài có chữ Thưởng công và 5 lạng bạc ; thưởng thụ cho Trần Linh Chánh đội trưởng suất đội, 3 đồng ngân tiền ; Nguyễn Mô cũng bổ lên suất đội, thưởng 4 đồng ngân tiền lớn, 1 chiếc tử kim bài có chữ Nghĩa dũng. Còn những người dự có công trạng đều thưởng ngân bài, ngân tiền có thứ bậc. Binh đinh thì thưởng chung cho 80 quan tiền.

Phạm Văn Điển thấy ở sông Vĩnh Tế còn có đồn giặc đóng giữ, lại đem binh thuyền đi đến quân thứ Vĩnh Thông, bàn với Nguyễn Công Nhàn, Nguyễn Lương Nhàn tuỳ cơ đánh dẹp. Bỗng tỉnh Hà Tiên gấp báo : có hơn 50 chiếc thuyền giặc hiện còn thả neo đỗ ở đảo Phú Quốc ; binh thuyền ở Gia Định phái đi, đã đến Kim Dữ, đóng ở ngoài biển nên đem vài chục chiếc thuyền vượt biển, đi mau đến đó hội họp cắt đặt. Điển cho rằng : tại Hà Âm và Hà Dương, bọn giặc chưa dẹp yên, nếu lại theo mặt khác vượt biển đón đánh quân giặc thì cũng chưa hợp với việc nên làm, chi bằng trước hãy đánh dẹp Hà Âm rồi đến Thất Sơn để cho mất hết cái lo bên trong, rồi sẽ mưu tính đặt lại sở Phú Quốc.

Vua nghe biết việc ấy, cho rằng Điển làm việc hợp với cơ nghi, dụ rằng : “Nên nhân khí thế đương mạnh, thẳng tiến phá ngay Thất Sơn, dẹp cho hết bọn giặc còn sót, thì cái đất bé nhỏ bằng hòn đạn, nốt ruồi ấy khó gì mà không giẫm nát. Duy ở chỗ ấy, địa thế hơi hiểm, nếu lùng khắp núi để bắt loài thú thì nên xét kỹ cơ nghi, chớ cậy mình thường thắng, thiên chấp ý riêng, có khi lỡ việc. Nên hết sức cẩn thận!”.

Bọn Phạm Văn Điển, Nguyễn Công Nhàn đánh phá tan quân Xiêm, thổ phỉ ở Hà Âm. Tháng trước, hơn 20.000 quân thổ nước Xiêm theo một dải trường luỹ từ Vĩnh Điền đến Tiên Nông, kết đồn liên tiếp đóng giữ, mưu đồ đánh phá. Bấy giờ ở Hà Âm, Hà Dương đều có bọn giặc làm trở ngại, nhất là ở Hà Âm lại nhiều hơn. Trước đây, vua đã dụ sai bọn quân thứ ở Ba Xuyên đã thư việc : thự Chưởng vệ, Lãnh binh An Giang Nguyễn Lương Nhàn, Vệ uý Phó lãnh binh Tôn Thất Nghị đều đem quân bản bộ đi mau đến Vĩnh Tế, hội hợp đánh dẹp. Đến khi Phạm Văn Điển dẹp yên bọn giặc ở mấy xứ Hậu Giang, Đa Phước, uy danh lừng lẫy, mới nhân đội quân đắc thắng, đem đến cùng vây giặc. Gặp lúc ấy hương binh ở 2 tỉnh Vĩnh Long, Định Tường giải đến và binh ở Hà Tiên rút về, chia đặt đi các đường. Quân quan hiện tại binh dõng chỉ có hơn 5.000 người. Điển thấy một dải Hà Âm, giặc kết liên 8 đồn, lại dựa vào trường luỹ đắp thành gần các thành, đồn Vĩnh Thông, Tiên Nông, Thôn Nhân, Vĩnh Lạc, mưu đồ đánh phá, thế giặc rất mạnh, bèn cùng các tướng bàn rằng : “Giặc nhiều, ta ít, nếu ta nhất tề tiến đánh thì chúng sẽ phải chia binh ra ; nếu chúng có quân viện ở ngoài cũng khó lòng tiếp ứng được”, liền cắt Đoàn Quang Mật đem hơn 1.000 binh đánh đồn bên tả của giặc, Tôn Thất Nghị đem hơn 500 binh để tiếp ứng ; Nguyễn Lương Nhàn đem hơn 600 binh đánh đồn hữu của giặc ; Nguyễn Công Nhàn đem hơn 1.300 binh tiến đánh 3 sở đồn giữa. Điển tự đem hơn 1.600 binh đi để làm tiếp viện. Đồn giặc 5 sở, bọn giặc ở mỗi đồn hơn 2.000 tên, hoặc giữ hiểm bắn ra, hoặc ra đồn chống đánh. Quan quân giao chiến với giặc, đồn tả của giặc vỡ trước, Đoàn Quang Mật và Tôn Thất Nghị chuyển về đạo binh của Nguyễn Công Nhàn để hợp sức đánh. Phó vệ Dương Thai chém luôn 5 đầu giặc tại trận, Phó cơ Nguyễn Tuấn chém được 2 đầu, các tướng khác đều hăng hái tranh tiến, tiến đánh. Quân giặc, 13 trại ở trong rừng, mỗi chi ước 2.000 tên, do đường rừng kéo ra tiếp viện. Phạm Văn Điển sai Phó quản cơ Dương Hựu, Phạm Phước Minh đều đem quân bản chi chặn đánh ; Nguyễn Lương Nhàn lại sai Nguyễn Văn ổn, Phan Pháp, Hồ Bích đem một toán quân đánh úp phía sau. Bị trong ngoài giáp đánh, giặc lại phải rút vào rừng, lủi trốn. Tướng giặc bỏ cả tàn lọng, voi, ngựa, một mình chạy lẩn như chuột. Các đồn giặc đều bị quan quân bao vây, đầu cuối không tiếp ứng được nhau, chỉ trong chốc lát, các đồn đều tan chạy hết ; 13 trại giặc ở ven núi không đánh cũng tự vỡ. Quân ta dồn sức đuổi bắt, chém được 448 đầu, đâm trúng 225 tên, bắn chết 339 tên, thu được 1 khẩu súng lớn kiểu Tây dương (sau vua cho tên súng là “Bình Xiêm xung tiêu pháo”, 6 cỗ súng phách sơn, 7 cỗ súng hồng y, 12 cỗ súng quá sơn, 2 khẩu súng thần công, 105 cây súng điểu sang, bắt được đạn dược, súng, thuốc súng, giáo, gươm không kể xiết. Lại thừa thắng tiến đánh 3 sở đồn giặc, tới nơi, quân giặc đều bỏ đồn chạy trốn, bèn sai quân sĩ đốt cháy hết một lượt.

Nghe tin thắng trận, vua phê bảo rằng : “Phạm Văn Điển, Nguyễn Lương Nhàn, Đoàn Quang Mật, với số quân 5.000, giết bọn giặc 20.000, không đầy 3 khắc hạ luôn 8 đồn, tại trận, bêu 7 đầu tướng giặc, giết quân giặc hàng nghìn, hàng vạn. Cái tài dẹp giặc như thế, gần đây, ít thấy. Thật là nhờ ở hoàng thiên mến tựa bản triều, nương ở uy linh hoàng tổ, hoàng khảo, tướng sĩ theo mệnh, xung phong giết giặc, thành được cái công lớn này, trẫm xiết bao mừng cảm, khen ngợi !”. Bèn xuống dụ : đặc cách gia ơn, ghi công lên các lá cờ cho Phạm Văn Điển : trước phạm lỗi nặng vì dời quân, đã chuẩn cho giáng bổ, nay nắm vững được cơ mưu, dẹp yên giặc Xiêm thổ, công ấy rất tốt, vậy thưởng thụ Đô thống Tả quân Đô thống phủ và vẫn lĩnh Tổng đốc An – Hà, lại gia thưởng một chiếc nhẫn vàng ngự dung mặt ngọc hoả tề có chạm kim cương 8 hạt liên châu dát vào, 1 chiếc “Phú Thọ bạch ngọc bội bài” hạng lớn có dây đeo kết san hô, trân châu, 1 quả bằng vàng có dây đeo kết hạt thuý ngọc, 1 chiếc trấn chỉ. Thự Đề đốc Nguyễn Công Nhàn : phân phái đúng phép, điều độ hợp nghi, đem 1 đạo binh phá tan 3 sở đồn giặc, chiếm đâu giữ được đấy, đánh đâu thắng đến đấy, có trí làm được vạn toàn, vậy thưởng thụ ngay Đề đốc An Giang, gia quân công 1 cấp, lại thưởng 1 chiếc nhẫn vàng ngự dung, mặt ngọc hoả tề có chạm kim cương 7 hạt dát vào, 1 chiếc “Phú Thọ bạch ngọc bội bài” hạng lớn có dây đeo kết san hô, trân châu, “Kim tiền phú thọ đa nam” lớn nhỏ mỗi hạng 1 đồng. Vả lại, viên Đề đốc này phụng mệnh phòng giữ đường sông Vĩnh Tế gần hơn 1 tháng khuyên nhủ, rèn luyện các tướng sĩ đều có sức khoẻ và biết lễ phép ; nay lại biết tính trước quyết thắng ; mạo hiểm phá giặc, khiến cho bọn đầu mục Xiêm thổ không dám dòm ngó nữa, những tỳ tướng dưới quyền thì chém được tướng giặc tại trận, quân sĩ thì giết được quân Xiêm thổ, trong 1 trận dựng nên kỳ công, càng thấy công danh rõ rệt ! Vậy riêng thưởng gia quân công 1 cấp, 1 chiếc nhẫn ngự dung mặt ngọc kim cương hạt to, 1 đồng kim tiền Song long hạng rất lớn có dây đeo. Lại dụ 2 bộ Lễ, Binh ghi tên đợi đến sau khi vua hết tang, tâu xin phong tước để đáp lại cái công lao đặc biệt. Ba viên thự Chưởng vệ Lãnh binh Nguyễn Lương Nhàn, Phó vệ uý quyền Lãnh binh Đoàn Quang Mật, Vệ uý lĩnh Phó lãnh binh Tôn Thất Nghị đều đã thân đốc biền binh của đạo mình, ra sức đánh giết, khiến cho quân giặc không thể tiếp viện được nhau, vỡ tan trong 1 trận, nghề hèn của chúng không thi thố được ; ba viên ấy đủ có thực trạng về chiến công. Vậy Nguyễn Lương Nhàn, thưởng thụ ngay Chưởng vệ, gia quân công 1 cấp, lại thưởng 1 chiếc nhẫn vàng mặt ngọc hoả tề hạt to, 10 hạt kim cương nhỏ dát vàng, 1 chiếc, “cát tường bạch ngọc bội bài” có dây đeo kết san hô, trân châu, 1 đồng kim tiền Phú thọ đa nam hạng lớn ; Đoàn Quang Mật, thưởng thự Vệ uý gia quân công 1 cấp, lại thưởng 1 chiếc nhẫn vàng mặt ngọc hoả tề, kim cương 3 hạt liên châu dát vào, 1 chiếc “cát tường bạch ngọc bội bài” có dây đeo kết san hô, 1 đồng kim tiền Song long hạng trung ; Tôn Thất Nghị, thưởng gia quân công 1 cấp, lại thưởng 1 chiếc nhẫn vàng mặt thuỷ tinh liên châu, 1 chiếc bạch ngọc bội bài có dây đeo, 1 đồng kim tiền Song long hạng nhỏ. Tất cả ba viên đều được ghi tên, vẫn làm chức việc Lãnh binh. Viên Phó vệ uý Dương Thai ra sức tiến trước đánh giết giặc, chém luôn 5 đầu tướng giặc, xưa nay viên tưởng nhỏ chưa có ai mạnh bạo, nhanh nhẹn được như thế ! Vậy thưởng ngay 1 chiếc kim bài có chữ “Kiêu dũng tướng”, cho đeo để nêu rõ công trạng ; lại thưởng thụ Vệ uý, gia quân công 1 cấp, 1 chiếc nhẫn vàng mặt ngọc hoả tề, kim cương 3 hạt dát vào, 1 chiếc “bạch ngọc bội bài” có dây đeo, 1 đồng tiền vàng Phú thọ đa nam hạng trung. Ngoài ra, các tướng biền lớn nhỏ, không ai là không hăng hái, nổi lòng công phẫn, ra sức giết giặc, có những người xông lên trước để phá trận, có những người chém đầu giặc luôn lúc ấy, đều tuỳ theo công trạng mà hậu thưởng hoặc thăng thụ, cất bổ chức hàm, lại gia thưởng quân công cấp kỷ và thưởng bài đeo bằng vàng tía, bằng bạc hay nhẫn vàng, kim, ngân tiền hạng lớn, hạng nhỏ có thứ bậc. Lại trước hết thưởng chung cho các binh dõng đi trận ấy tiền 3.000 quan.

Sau đó, vua dụ bọn Điển dời quân hợp sức đánh các xứ Thất Sơn, Sách Sô. Điển cho rằng : địa thế ở Thất Sơn hiểm yếu, chưa thể dẹp yên gấp ngay được, duy Sâm Phủ là chỗ đất tất phải đi qua, nên hợp sức đánh trước để chặn chỗ hiểm. Nhân trích để lại hơn 2.000 binh dõng, sai Lãnh binh Đoàn Quang Mật quản giữ các đồn trại thuộc đường sông Vĩnh Tế, còn đều đem đi đánh xứ Sâm Phủ. Điển cùng với Nguyễn Công Nhàn, Tôn Thất Nghị do đồn Tiên Nông dời đến Ba Thứ, giặc đều bỏ đồn chạy. Hôm sau, tiến đến Bàn Ly, chỗ này bên tả có núi Cấm Sơn, bên hữu có núi ốc Dâm, địa thế rất hiểm, rừng cây sầm uất, gai góc liền từng bụi, trong có luỹ dài chặn ngang, quân giặc giữ hiểm chống cự. Điển đặt 3 đồn sở ở xứ Bàn Ly, tự đóng giữ lấy, sai Nguyễn Công Nhàn đem 1.000 binh theo đường núi ốc Dâm, Tôn Thất Nghị đem 1.000 binh theo đường núi Cấm Sơn, đều nhân ban đêm, đi xuyên sơn, đến sáng đều tới phía sau luỹ giặc. Bọn giặc sửng sốt kinh hãi, chia các mặt để chống giữ. Quan quân hết sức đánh mạnh, giặc đều tan chạy. Quản cơ Trần Tri ráng sức tiến lên, xông vào luỹ giặc trước, các quan kế tiếp xông vào, phá tan luỹ dài, bắn chết 164 tên, đâm trúng 32 tên. Tin báo tới nơi, vua khen bọn Điển khéo ra quân kỳ, đánh lấy quyết thắng. Phạm Văn Điển, Nguyễn Công Nhàn, Tôn Thất Nghị, đều thưởng gia quân công 1 cấp ; Nguyễn Lương Nhàn, quân công kỷ lục 3 thứ ; Trần Tri, quân công kỷ lục 2 thứ ; riêng thưởng 1 chiếc nhẫn vàng. Các biền binh đi đánh trận ấy đều ban thưởng có thứ bậc.

(Từ quân thứ Vĩnh Tế đến Kinh, lại chuyển đến Hà Nội 108 trạm, cộng 3.326 lý, ngựa chạy đưa đi chỉ hết 11 ngay).

Thự Tổng đốc Long – Tường Nguyễn Tri Phương tiến đánh Tiền Giang, phá tan quân giặc. Khi ấy, Phương ở An Giang chuyển về đến trại Hùng Ngự, nghe tin có bọn giặc ước hơn 2.000 tên vây đánh đồn Cửu An, lại dựng trại ở nhánh sông Chính Đôn, chặn ngang lòng sông, Phương tức thì đốc suất biền binh chia đường tiến đánh, mở được 9 chỗ sông bị chặn. Tạ Văn Linh, đóng giữ chỗ ấy, thừa thế, mở đồn, hợp sức đánh, bọn giặc đều bỏ trại, tan chạy ; quân ta đuổi theo, đánh phá tan hết. ở 2 trại Tân Châu, An Lạc cũng bị bọn giặc đến nhiễu, bọn Nguyễn Văn Hoà, Vũ Đình Đàm, đóng giữ đấy, tung binh ra đánh : giặc chết và bị thương rất nhiều.

Nghe tin thắng trận, vua mừng nói : “Hà Tiên, Vĩnh Tế, Tiền Giang, Hậu Giang, lần lượt dẹp yên, thật đỡ sự lo cho trẫm về mặt Nam”. Vậy thưởng cho Nguyễn Tri Phương quân công 1 cấp, nhẫn mặt ngọc hoả tề, kim cương 3 hạt liên châu, quả bằng vàng và đồng hồ mỗi thứ 1 ; Vũ Đình Đàm, gia quân công 1 cấp, nhẫn vàng, kim tiền Song long mỗi thứ 1 ; Tạ Văn Linh, nguyên Lãnh binh bị giáng, nay được phục chức ; Phó vệ uý, Lãnh binh Nguyễn Văn Hoà, quân công kỷ lục 2 thứ, 1 chiếc nhẫn vàng. Các viên võ chức và binh dõng đi đánh tâu rằng : “Những biền binh thuộc tỉnh tình nguyện đi giết giặc lập công gồm có hơn 100 người, xin ghép vào làm chiến sĩ 2 đội nhất, nhị để đủ sai phái. Vua y cho thưởng tiền cho mỗi người 1 quan, đợi có công trạng sẽ liệu lục dùng.

Nhâm Dần, Thiệu Trị năm thứ 2 [1842], mùa hạ, tháng 6

Lê Văn Đức, Nguyễn Công Nhàn, Nguyễn Tri Phương, Lê Khắc Nhượng và Tôn Thất Nghị đem 6.000 biền binh, tiến thẳng đến Sách Sô (thuộc địa hạt huyện Nam Thịnh, phủ Nam Ninh kiêm lý) để đánh dẹp. Vua nghe biết, nói rằng : “Chỗ ấy, giặc mọn, hà tất phải phái nhiều biền binh, há chẳng làm mệt sức mọi người ru?”. Lại dụ Lê Văn Đức rằng : “Chỗ ấy nếu còn bọn nguỵ phạm tụ tập thì nên thừa cái thế chẻ tre, tiễu diệt cho mau để hết sạch mầm mống còn sót. Nếu chúng đã trốn xa, vào tận rừng cùng kiệt, thì đem ngay một dải đất như những huyện Nam Ninh, Nam Thái, lựa tuỳ sự thế, hoặc nên giao cho người Thổ đã quy thuận, cho họ chức hàm và liệu cấp lính Thổ cho lưu lại để giữ như việc cho Mộc Tức quyền lĩnh Phủ uý đó. Tại Hà Âm, Hà Dương cũng đều đặt quan chức người Kinh, người Thổ, khiến cho tự đi chiêu dụ. Nếu sự thế có chỗ chưa tiện thì cũng nên một phen sắp đặt thật kỹ, chỉnh đốn việc biên cương, khiến cho việc có đầu mối, để đợi toan tính về sau. Vả, quan quân của ta bị khó nhọc ở ngoài đã lâu, đến nay 3 năm, không phải là trẫm không nghĩ tới cái khổ của người đi xa, chỉ vì trong lúc biên thuỳ có việc, không thể không lại phiền dùng binh lực. Nay sự cơ đã gần được thuận tiện, bọn giặc đã gần dẹp hết, các ngươi nên tuỳ việc liệu làm để cho biên cương vững chắc, quân ta sớm được nghỉ ngơi, mới không uổng công chuyến đi này và xứng với sự uỷ thác”.

Bọn Tổng đốc Lê Văn Đức, thự Tổng đốc Nguyễn Tri Phương tiến binh đến Sách Sô, từ Thuận Cảng chuyển ra sông Tiền Giang, đi ngược dòng lên, qua Tân Châu, An Lạc và cửa cảng Ba Nam. Bọn giặc bỏ đồn, tan chạy trước. Đạo quan quân đi trước, đến bến Sách Sô, thấy vài trăm tên giặc ẩn nấp, liền đem đại bác bắn dữ dội, giặc liền tan chạy. Quan quân chia đường tìm nã bắt sống được 6 tên thổ phỉ ; tra hỏi, chúng nói : Trận đánh ở Hà Âm bữa trước, quân Xiêm Man thua to, bị thương và chết rất nhiều. Tên đầu mục giặc là Chất Tri đã đem tên phạm nguỵ xưng về Trấn Tây. Bọn Đức bèn theo đường tiến đến các đồn quân Man. Bọn giặc đều đã nghe oai, trốn xa, bỏ hết nhà ở, tuyệt không có của chứa gì cả. Đức sai đốt hết những chỗ chất chứa, quy tụ của giặc, rồi ai nấy đem binh thuyền trở về An Giang. Nguyễn Công Nhàn, Nguyễn Tri Phương và Tôn Thất Nghị đều về lỵ sở cung chức. Bọn Lê Văn Đức, Lê Văn Phú và Lê Khắc Nhượng về Gia Định.

Trước đây, vua sai viện Cơ mật viết thư gửi cho Lê Văn Đức rằng : “Toàn hạt Trấn Tây sự thể rất quan trọng. Phàm những công việc phải xếp đặt nên xét kỹ tình hình, lại nhận thêm sự thế, nếu có thể thừa cơ đem quân đắc thắng tiến luôn đuổi đánh để chỉnh đốn lại bờ cõi thì nên lập tức phái đi cho kịp việc. Đó là thượng sách. Nếu vì binh sĩ lâu ngày mỏi mệt và địa thế rộng rãi, chưa thể một chốc dẹp yên, muốn tìm cách khác dùng Man đánh Man, thì tên Yêm chính là lúc có thể dùng được. Nếu hắn quả một lòng quy phụ triều đình, nghĩ mưu báo đáp thì liệu cấp cho vài nghìn lính Thổ, giao hắn quản lĩnh, lại phái thêm 2 cơ binh ở Nam Kỳ((1) Nam Kỳ : Thực lục chép là . Ngờ in lầm. Có lẽ là mới đúng.1), một cơ ở Tả kỳ((2) Tả kỳ : tức Bình Định, Phú Yên, Bình Thuận, Khánh Hoà.2), chọn 1 viên Lãnh binh hay Quản vệ được việc, cho đứng đầu, để quản đốc, sai hắn đi các địa phương Nam Ninh, Nam Thái hay Nghi Hoà, Phong Nhương, chiêu tập thổ dân ; đợi được số dân về nhiều thì cho hắn làm trưởng. Ta sẽ cắt một khoảng đất cho làm hàng rào che chống bên ngoài mà phục tòng về ta như loại phủ, huyện vậy. Rồi chia đồn, đóng ngay các nơi hiểm yếu, cho quân sĩ nghỉ ngơi, dưỡng sức vài năm. Nội trị đã vững, sẽ làm một chuyến to, thu lấy toàn hạt Trấn Tây, thẳng tiến đến bờ cõi nước Xiêm, đánh cho thật dữ khiến chúng không bao giờ còn dám manh tâm quấy rối. Đó cũng là một kế hay. Mấy việc kể trên, xét cho kỹ, nếu có thể làm được thì nên làm tập tâu dâng lên”.

Đức bèn tâu rằng : “Bọn Lạp Man mà dám rông rỡ ((1) Rông rỡ : không phục tùng, không sợ hãi.1) như vậy, là cậy có người Xiêm đó thôi. Qua những lần bị quan quân đánh giết, về mặt thuỷ thì nửa đêm phải trốn xa, về mặt bộ thì một trận thua vùi dập, bọn Xiêm, Man chắc đã phải mất vía, chồn lòng. Nay ta nếu thừa thắng, thẳng đánh Trấn Tây, quân giặc chẳng qua như đàn ong, lũ kiến, lại thêm hoảng sợ tiếng gió, tiếng hạc ((2) Do chữ “Phong thanh hạc lệ”. Khi xưa, quân Tần Bồ Kiên bị quân Tấn đánh, thua to, lúc chạy nghe tiếng gió rít, tiếng hạc kêu, đều hoảng sợ, tưởng là tiếng hò reo của Tấn đuổi.2), có thể không đánh cũng tự tan, nhưng xét kỹ tình hình, nhận được sự thế thì đánh được không khó, mà giữ được mới khó. Xin đem thế giặc mà nói : Toàn hạt Trấn Tây vốn là một nước Lạp Man, phần nhiều quen thói ngoan ngạnh, giảo trá, tráo trở, bất thường. Trước kia tuy gọi là lệ thuộc bản đồ nước ta, nhưng chỉ là có cái tiếng suông mà thôi. Chúng đã quên ơn, cắn trả, coi ta là thù [ta đối với chúng] đã thành cái thế cưỡi cọp dữ rồi. Nay muốn chiêu dụ, vỗ về cho chúng ở yên nhưng cái tính khó dạy của chúng vẫn không thể tin, muốn cầu như trước : đặt đất làm quận, huyện, dùng người làm binh, dân, quyết không thể được nữa ! Huống chi địa thế xứ ấy rộng gấp đôi 6 tỉnh Nam Kỳ, nếu muốn dùng binh đánh gấp thì đánh bên đông chúng lẩn sang bên tây, lấp chỗ này lại hở chỗ khác, há có thể một trận mà trừ diệt được cả đâu ? Dù có thể trận nào cũng thắng cả, nhưng há có thể chỗ nào cũng giữ được cả ? Vả, đất ấy rừng rú rậm rạp mà toàn không có chỗ nào hiểm yếu có thể giữ vững, chẳng qua lựa đặt một vài đồn bảo, lưu binh đóng giữ : số binh lưu lại nhiều thì sự chuyển vận [để tiếp tế] rất khó : lưu ít thì thế cô nguy, khó giữ. Hơn nữa, quân lính đóng lại, chỉ ở trong đồn bảo, mà bên ngoài mặc chúng kiêu rông ((3) Kiêu rông : kiêu ngạo lăng loàn.3), thì có ích chi ? Tất đến phải bỏ, rút về, thì khó nhọc, tổn phí không sao kể hết, sẽ không khác gì việc làm lần trước ! Kể ra, mới bỏ, lại vội lấy, đã lấy, lại bỏ đi, thì không bằng đợi lúc nên lấy hãy lấy, là hơn. Nay lại xin lấy binh thế hiện tại của ta mà nói : binh các đạo đi đánh dẹp đã trải 2 – 3 năm nay, xông pha, dầu dãi, khổ sở đã nhiều, cực nhọc đã lâu, kẻ ốm chết, kẻ bỏ trốn kể có hàng nghìn. Gián hoặc trong 1 vệ, 1 cơ, số lính chỉ còn một nửa, thậm chí lại có vệ, có cơ không còn được một nửa ! Mà những người còn sống thì mình không có manh áo lành, sắc mặt trông như đau ốm. Sức quân sĩ đã mệt nhọc như thế, há nỡ đem hạng người đáng yêu mà để làm cái việc không đáng yêu ru ? Huống nữa, hành binh sang đấy, không thể không dùng thuyền được. Hiện nay các thuyền vì luôn mấy năm dùng đi đường thuỷ, phần nhiều bị mục nát, thấm gỉ mà không có gỗ ván, dầu mỡ, để tu bổ ; nay nếu dùng để chở binh đi xa, chưa chắc mười phần đã ổn. Phàm những điều đó đều là tình hình thực tại. Lại còn như các địa phương Nam Ninh, Nam Thái, liền tiếp với thượng du, bọn liều chết liên kết nhau để giữ. Tên Yêm, tuy có thể dùng được, nhưng ta đối với hắn, ơn tín chưa sâu, chưa tiện cho đi chiêu tập. Sự cắt đất cho hắn làm phiên thuộc, tưởng hãy để thong thả sẽ làm, mới có thành hiệu. Thần trộm nghĩ : cách dùng binh, không ngoài 2 việc đánh giữ. Quân địch nếu chưa nên đánh, thì ta hãy cứ giữ, mình ở gần đợi kẻ xa đến, mình nhàn rỗi đợi kẻ mệt nhọc, khi có thể thắng thì đánh, như vậy, giữ không phải là chỉ giữ mà giữ tức là cách để đánh đó. Nếu khiến cho quân dân ta nghỉ ngơi, cùng vui dưỡng sức, nội trị đã vững, lại nghiêm cấm việc mua trộm muối, và lương thực, đợi một vài năm, bọn Lạp Man không chịu nổi sự lấn bức hà ngược của giặc Xiêm, tất sẽ giết hại lẫn nhau. Lúc ấy có thể nhân kẽ hở, nắm cơ hội mà hành động, thì không phải đánh mà thu được toàn thắng.

“Vậy xin hãy giữ từ tỉnh lỵ Hà Tiên liền cả một dải sông Vĩnh Tế và những đồn bảo hiện có ở các địa phận Đa Phước, Cần Thăng, Tân Châu, An Lạc, Hùng Ngự, Thông Bình, liệu để những binh mới phái đến đóng giữ những nơi ấy. Tựu trung chỉ có chỗ cương giới miền biển của tỉnh Hà Tiên liền kề với giặc, và sông Vĩnh Tế là đường sau của Hà Tiên, thông vào tận ruột tỉnh An Giang, việc phòng bị rất là quan trọng. Nay bọn Xiêm, Man trốn tránh tản mát không có quân giặc tụ ngầm ở gần biên giới. Vả, sắp đến mùa mưa lụt, việc phòng giữ hơi được rỗi rãi, xin tuân theo lời minh dụ : liệu cho những binh lính lần lượt đã đi thú và các hạng biền binh trong Kinh, ngoài tỉnh đã đi đánh dẹp, trở về quân ngũ ở Kinh, ở tỉnh để cho sức binh được rỗi. Tôi lại còn có điều xin nữa : Giặc Xiêm sang chuyến vừa đây, muốn để rửa cái xấu hổ lần trước và khoe khoang với bọn Man Lạp, thế mà lại bị thua đau như vậy, càng nhục hơn nữa. Hoặc giả chúng chưa cam tâm, còn muốn cầu may để hòng báo phục, lại đến nộp mạng lần nữa, cũng chưa biết chừng. Ta nên chuẩn bị để nắm trước lấy cơ nghi mà chiến thắng địch. Vậy xin đến thời kỳ phòng bị mùa đông này, những tỉnh Gia Định, Vĩnh Long, Quảng Nam, Bình Định mỗi tỉnh phái 1.000 binh, Định Tường, Biên Hoà, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hoà, Bình Thuận mỗi tỉnh phái 500 binh, đến tháng 10, tháng 11 sang tỉnh An Giang đóng nghỉ. Còn binh ở Kinh, xin phái 5 vệ, đến tháng 12 vào đóng giữ Gia Định, Vĩnh Long mỗi tỉnh 2 vệ, Định Tường 1 vệ. Những thuyền bọc đồng, thuyền hải vận cũng xin cho chỉnh bị sẵn để đợi sai phái. Nếu giặc sợ không dám động đến ta, thì ta vì đã có phòng bị, không phải lo rồi, cứ chăm cho quân sĩ diễn tập để ai nấy đều thông thạo mưu lược về việc binh, tưởng cũng chẳng sao. Đến năm sau, sẽ liệu cho về. Nếu giặc ngu, không sợ chết, còn dám đến quấy nhiễu thì ra tay đối phó dễ dàng, không phải lo vì chậm chạp, lỡ việc. Lại từ Hậu Giang đến Tân Châu và An Lạc ở Tiền Giang tất phải từ Thuận Cảng đi lên, trải 3 – 4 ngày đi quanh co, vừa chậm vừa khó, đi lại thật thấy bất tiện. Vậy : một đoạn từ An Giang đi ngang qua Tân Châu và An Lạc, xin cho quan tỉnh thuê vát((1) Vát : giống như điều động.1) quân, dân đào thành đường sông để dễ cho sự khống chế tiếp ứng. Đó cũng là một việc cốt yếu nên làm”.

Vua dụ Lê Văn Đức rằng : “Quan quân qua nhiều lần đánh giết, giặc đã tan chạy. Bọn giặc ở Sách Sô cũng sợ oai trốn xa trước, đến đâu cũng thấy không còn gì. Chắc chúng đã mất vía bỏ trốn, không dám dòm nom gì nữa. Duy toàn hạt Trấn Tây chưa thu phục được hết, còn chưa vừa lòng, nhưng lựa thế, xét cơ : nếu đánh được mà không thể giữ được, sao bằng hãy tạm nghỉ binh, dưỡng sức, gây oai để sẽ mưu đồ về sau, còn hơn. Nay nhân lúc oai tiếng lừng lẫy, hát khải hoàn, rút quân về, cũng là hợp lý. Chỉ có điều là ở địa diện An Giang, Hà Tiên và những đường hiểm yếu ở Tiền Giang, Hậu Giang đều cứ nhân các đồn luỹ cũ, lưu binh đóng giữ, còn thì cho về. Và, những chỗ địa đầu giáp tiếp ở Tây Ninh, Quang Hoá còn chưa bàn tới, cũng nên đồng thời cắt đặt kỹ lưỡng, lựa để số binh ở giữ, ngoài ra cũng rút về cả. Ngươi, bấy lâu mỏi mệt ở ngoài, nay đã 3 năm, tấm tình tôi con há không nhớ mong, trìu mến ? Nay, việc biên giới đã hơi thư, cho hãy về tỉnh nghỉ ngơi, mươi hôm, rồi theo đường trạm, về Kinh ngay để chiêm cận. Còn Lê Văn Phú, vẫn do chức Thống chế, quyền lĩnh Tổng đốc Định – Biên ; Đặng Văn Thiêm cũng về Bình – Phú để cung chức. Về số các hạng biền binh nên cho lưu lại hoặc thả về, đợi làm tập tấu đệ lên, sẽ lại liệu quyết định. Về việc xin đến kỳ phòng thủ mùa đông, trước phái binh đến thì đợi đến gần kỳ ấy, đã do bộ tâu rồi làm. Duy các thuyền ở Nam Kỳ, cần dùng rất gấp, giao cho sở tại xét xem những chiếc thuyền nào nên tu bổ thì chi các khoản để cho sửa chữa, cần phải đều được hoàn hảo để phòng dùng đến. Một đoạn từ thủ sở Châu Giang ngang qua Tân Châu và An Lạc, giao Nguyễn Công Nhàn và Nguyễn Công Trứ trù tính công làm, rồi tâu lên”. Chưa bao lâu, tỉnh An Giang trù tính : nhân công dùng làm việc này, phải tới 72.522 công, phải thuê 10.000 dân phu ở 3 tỉnh An Giang, Vĩnh Long, Định Tường và vát 2.000 biền binh các hạng đi làm, ước tới 2 tháng mới xong. Nhưng hiện nay trời nắng dữ, nhân dân phần nhiều cảm nhiễm sinh bệnh, xin hãy cho tạm hoãn”. Vua y theo.

Bọn Tổng thống Lê Văn Đức tấu khúc khải hoàn rút quân về. Những lính thú mới vẫn để lại đóng giữ 2 tỉnh An Giang, Hà Tiên ; còn những lính thú cũ và quân theo việc đánh dẹp lâu ngày đều cho về nguyên ngũ.

### Tập 06 Tân Sửu, Thiệu Trị năm thứ nhất [1841], mùa hạ, tháng 5 Tha cho tên Yểm về Trấn Tây. Yểm từ năm ngoái, bị giải về Kinh, tống giam vào ngục trấn phủ. Đến đây, Tán lý Nguyễn Công Trứ mật tâu rằng : “Nước Cao Miên được triều đình trông nom đùm bọc đã lâu, lại đặt ra thành Trấn Tây để phòng giữ. Đã 8 năm nay, tốn phí tài lực không biết đâu mà kể, nhưng thổ binh thì không thể sai phái được, thổ dân thì không thể dạy dỗ được. Từ khi có việc binh biến đến nay, quan quân chết trận có đến hàng nghìn, cho đến súng đạn khí giới bị hao tổn, tiền lương chi phát ra, thuyền bè phải vận tải, công và tư đều hao tổn cả ! Ba Xuyên và Lạc Hoá cũng lần lượt không được yên tĩnh. Các tỉnh thuê bắt đòi gọi, nông và thương đều vất vả cả. Sự thế hiện nay khác với năm ngoái : vì năm ngoái, nhân dân do sự ngờ sợ mà sinh biến loạn ; năm nay đã có tên Giun làm tù trưởng, chí ở khôi phục lại nước, nên nhân dân đều một lòng liều chết. Tuy có quận chúa là Ngọc Vân, nhưng họ cho là hạng đàn bà không kể chi đến. Chỗ nào cũng đóng đồn họp quân, nương chỗ hiểm để chống lại. Việc sai người đi dò la hoặc dẫn đường, hai việc ấy đều không thể làm được cả. Từ Thuyết Nột cho đến các xứ Long Trưng, Sa An, Cổ Tiêu và Long Sơn, hai bên bờ bắn xuống, ngăn giữ sự qua lại. Vả lại, thành Trấn Tây nhỏ bé, không thể dùng để giữ được, phải lấy con đê làm thành ngoài, mà đồ dùng để sửa đắp cũng không được bền chặt. Nay đến mùa nước lớn, nước sông chảy xiết, ngay như đối ngạn bên kia sông là đất Nhu Viễn và La Kết, lỡ ra có việc khẩn cấp đi lại còn không tiện, huống chi đến các nơi xa ? Thành Trấn Tây bốn mặt đều phải đối địch với giặc, ứng tiếp không chu, nếu một phen không dùng đến đại binh thì không bao giờ xong việc được. Nói cho đúng, quân nhiều phải tốn nhiều, nhưng cũng chỉ thêm cho sự tốn phí mà thôi. Vì rằng, dù lấy được đất ở nơi ấy, cũng không thể cày cấy được, dù lấy được dân ở xứ ấy, cũng không sai khiến được. Song, đã sửa sang xếp đặt, công lao khi trước không nên bỏ đi cả. Nên nhân theo tình thế mà làm cho được việc. Năm trước, tên Yểm đã bó tay nộp mình, mong làm tôi tớ triều đình, nhờ lượng tiên đế, tuy đem giam cấm, nhưng vẫn hậu cấp cho tiền lương. Nay hoàng thượng nối ngôi, ơn trạch rộng ban, dù kẻ tử tù cũng được khoan giam. Vậy xin ban sắc Chỉ giao tên Yểm cho thành Trấn Tây trông coi. Y đã được tha về, thì đồ đảng của y cũng lần lượt ra thú. Đồ đảng đã chia rẽ, tất ngờ vực lẫn nhau, ta không còn phải lo về sau nữa, có thể đi thẳng một đường, dùng người Man để chiêu dụ người Man, bắt họ phải nơi nào giữ nơi ấy cho được yên. Còn kẻ nào cố chấp mê hoặc bướng ngạnh không chịu theo thì đánh giết cho một trận kịch liệt. Như thế là lấy tôi tớ của triều đình làm người sai khiến của triều đình”. Sớ này được giao xuống cho đình thần bàn. Đình thần đều cho rằng bọn Ngọc Vân là con của phiên vương Chăn ngày trước, mà bọn di dân của y còn không chịu quy phục, huống chi tên Yểm mới đầu hàng quy thuận, dù nay có được tha về chăng nữa, bọn thổ dân cũng chưa chắc đã vì cớ tên Yểm mà bỏ hay theo triều đình. Song, tên Yểm ở Kinh, cũng là một tên tù giam, giữ lại cũng không có ích gì. Tán lý thần ((1) Chỉ Nguyễn Công Trứ.1) đã cố xin tha cho nó về, hoặc giả cũng có thể giúp cho chiêu phủ được một phần nào. Vậy xin hãy tạm tháo xiềng xích, giải về Trấn Tây, cho được tự đi chiêu tập bọn thổ dân. Còn công việc ở ngoài biên cương xin giao cho bọn Kinh lược và Tướng quân phải trù tính cho chín chắn mà làm. Không được hoàn toàn chắc bằng ở tên Yểm, cũng không được mượn cớ ấy mà đóng quân lâu ngày làm cho nhụt bớt khí thế của quân lính, có điều không tiện. Lời bàn ấy dâng lên, vua phê bảo rằng : “Quần thần đã đồng ý, ta cũng tạm chuẩn y, nhưng phải cẩn thận công việc, đừng để có hối về sau”. Vua bèn sai bộ Hình mở xiềng xích tha cho Yểm, rồi cho đáp thuyền công đưa về Trấn Tây. Trước kia, khi Yểm quy thuận, họ hàng thân thuộc đến hơn 9.000 người đều bị chia cho ở tại các tỉnh Nam Kỳ ; đến đây, tha cả cho được đoàn tụ với nhau. Duy có con trai tên là Bướm vẫn phải an trí ở tỉnh Khánh Hoà. Các tư sản của Yểm mang theo khi trước, lưu lại ở Gia Định, nay đều trả lại đủ số, duy có súng và đồ binh thì nộp vào làm của công. Tân Sửu, Thiệu Trị năm thứ nhất [1841], mùa hạ, tháng 6 Tháng 9, quan quân ở Trấn Tây rút về đóng giữ ở tỉnh An Giang. Ngày hôm ấy, Trương Minh Giảng chết. Trước đây, công việc sửa sang ở Trấn Tây, công của Minh Giảng nhiều hơn cả. Đến đây, rút quân về, trong lòng uất ức, vừa xấu hổ vừa tức bực, cáo ốm không tiếp các tướng hiệu, về đến An Giang thì chết. Bọn Phạm Văn Điển và Nguyễn Công Trứ đem việc Giảng ốm chết tâu lên. Vua nghe tin Giảng chết, phán rằng : “Giảng đảm đương sự ký thác nặng nề, chỉ vì việc trị dân và chống giặc không đúng phương pháp, cho nên thổ dân cùng nổi lên làm loạn, để triều đình phải bận đến việc phái quân đi tiễu bắt, đã lâu ngày mà chưa xong việc. Đã giao cho bộ nghiêm ngặt nghị tội. Không ngờ đại binh vừa mới về đến nơi, đã ốm chết rồi. Ta nghĩ : Giảng năm trước đây, làm Tham tán quân vụ, khiến giặc ở Biên Hoà và Vĩnh Long sợ mất vía, lại đánh được quân Xiêm ở Thuận Cảng. Công trạng rõ rệt, khắc vào bia đá cũng không thể mất được. Chuẩn cho truy đoạt lại chức Trấn Tây Tướng quân, để cho rõ tội, nhưng gia ơn cho chiếu theo phẩm hàm Đại học sĩ mà cấp cho tiền tuất ; lại thưởng cho 5 cây gấm Trung Quốc, 5 cây sa các màu, 20 tấm lụa, 30 tấm vải và 1 000 quan tiền, tha cho không phải truy nghị tội nữa. Lại thu lại lương bổng hàm thất phẩm chi cho con trai là Trương Minh Thi khi trước. Cho bọn Phạm Văn Điển, Nguyễn Công Trứ, Đoàn Văn Sách, Nguyễn Công Nhàn và Cao Hữu Dực được giữ nguyên hàm quản lĩnh quan quân đóng giữ ở An Giang, hiệp đồng với nhau bàn công việc làm. Còn các chức hàm về kinh lược, tham tán, tán lý, đề đốc và hiệp tán ở Trấn Tây của các viên này đều phải cách và thu lại cả ; những ấn triện quan phòng, cờ bài, cờ rồng và ấn quan phòng hai đạo binh lương đều đem về bộ nộp lại. Các viên dịch trong ty An biên khi trước, thì chia bổ vào những chân khuyết thông phán và kinh lịch ở sáu tỉnh Nam Kỳ ; còn số thừa thì rút về Kinh có khuyết đâu sẽ bổ”. Bố chính tỉnh An Giang là Phùng Nghĩa Phương ốm, cho Cao Hữu Dực quyền lĩnh ấn triện Phiên ty ((1) Phiên ty : tức là Bố chính, cũng như Niết ty là án sát1). Quan quân đã về tỉnh An Giang, bọn Phạm Văn Điển phân phái các biền binh đi phòng giữ những nơi hiểm yếu lợi hại. Trước tiên sai Đoàn Văn Sách và Nguyễn Công Nhàn trích lấy 3.000 quân đi đến phủ Lạc Hoá để hội tiễu. Cho bọn quận chúa là Ngọc Vân đến ở tại thôn Chu Phú, phái người coi giữ. Định tội các tướng hiệu ở Trấn Tây. Bộ Hình đệ án tâu lên, khép Cao Hữu Dực, Phạm Văn Điển và Nguyễn Công Trứ vào tội trảm giam hậu, từ Lê Văn Đức và Nguyễn Tiến Lâm trở xuống cứ theo thứ tự, giảm tội dần. Vua cho rằng trong buổi đi đánh dẹp, còn mong họ lập công báo đáp về sau, bèn giáng Hữu Dực làm Tư vụ bộ Hình, quyền lĩnh án sát tỉnh An Giang ; Phạm Văn Điển thì cách chức hàm Tả quân Chưởng phủ, giáng làm Chưởng vệ, nhưng cho cách lưu ((1) Cách lưu : bị cách chức nhưng được lưu lại làm việc.1) quyền lĩnh Tổng đốc An – Hà ((2) An Giang và Hà Tiên.2) vẫn được giữ tước hầu ; Nguyễn Công Trứ thì cách chức hàm thự Tả đô ngự sử kiêm Tham tri bộ Binh, giáng làm Lang trung bộ Binh, nhưng cho cách lưu, quyền lĩnh Tuần phủ An Giang ; Đinh Văn Huy giáng làm Viên ngoại lang bộ Hình, lĩnh án sát Hà Tiên ; nguyên Tuyên phủ sứ Hải Đông là Trần Văn Thông giáng làm Lang trung bộ Binh, lĩnh Bố chính Hà Tiên ; Lê Văn Đức và Nguyễn Tiến Lâm không phải chuyên làm việc ở Trấn Tây từ trước đến sau, đều phải giáng 3 cấp, được lưu nhiệm ; nguyên sung chức Bang biện là Doãn Uẩn mới làm việc ở Trấn Tây có ít ngày, được tha không bàn tội ; Nguyễn Công Nhàn và Đoàn Văn Sách đều phải giáng 2 cấp, được lưu nhiệm. Vua dụ rằng : “Công việc ở hạt Trấn Tây xếp đặt đã lâu năm, ta lúc mới nối ngôi, không biết lo xa thấy trước cho nơi biên cảnh được yên. Tuy là tội của các biên thần không làm được công trạng gì, nhưng về phần ta cũng đáng nên hậm hụi. Chỉ vì sự thế ngày nay, phải đành làm hạ sách ấy, để đến sau sẽ liệu cách khác làm cho dân ta được yên. Chịu chung tiếng chê trách với các biên thần, để cho thiên hạ đều biết cái lỗi của ta. Nay vua tôi đều phải nên cố gắng gia sức, mưu tính công việc về sau cho được tốt, chớ lấy việc bị giáng truất ấy mà nản lòng. Ngày báo đáp cho nước còn dài, đều phải nên cố gắng”. Lại sai Phạm Văn Điển và Nguyễn Công Trứ đến ngay quân thứ phủ Lạc Hoá hội đồng chia đi tiễu dư đảng giặc. Quyền lĩnh Bố chính tỉnh An Giang là Cao Hữu Dực phái người đi dò xét tình hình của giặc, rồi tâu rằng : “Bọn thổ phỉ từ trước đến nay phần nhiều khổ về không đủ muối và cau. Hiện nay bọn Xiêm Man chia nhau đóng đồn ở Tượng Sơn, Sâm Sơn ; quân của tên Giun và Chất Tri có 10.000 người đóng ở Vĩnh Long, quân của Xiêm có 10.000 người đóng ở Khai Biên ; quân người Trung Quốc và người Thổ của phỉ mục là Trần Lâm ước 5.000 người đóng ở Sốc Trăn, Trà Tâm, Mã Tộc, Chông Sách, đặt đồn để chống giữ”. Vua dụ rằng : “Tình hình đói khổ của bọn thổ phỉ cũng có thể biết được đại khái rồi. Quân Xiêm đóng đồn ở đấy đến gần 25.000 người thì lấy lương vào đâu ? Lẽ nào tụ họp lẩn lút rất nhiều người mà lại không hề đến quấy nhiễu một lần nào ư ? Câu nói phần nhiều là đồn đại hão, không thể tin chắc được. Duy có những nơi giáp giới nào quan yếu, cũng nên phái người đến thăm dò cho kỹ, để biết rõ tình hình hư thực của giặc mới được”. án sát Nguyễn Thế Trị lại tâu rằng : “Các cơ An biên và An man thuộc trong tỉnh hạt, mà những thân thuộc của thổ binh, thổ dân và thổ mục nhiều đến hơn 1.000 người, sợ rằng bọn họ ngoài mặt thì phục tùng, mà trong bụng lại khác chăng. Xin phái đại viên đem biền binh đến chia đóng ở các đồn phủ Chu Giang, Tân Châu và An Lạc”. Vua cho câu nói của Thế Trị phần nhiều là hoảng hốt nhát sợ, quở rằng : “Bọn chúng ở đấy tức như là con vượn trong cũi, con chim trong lồng, còn dám nghĩ đến chuyện khác, hà tất phải lo ngại quá thế ? Huống chi các đồn Chu Giang đã phái binh đến đóng giữ rồi, ngươi còn chưa biết ư ! Truyền giáng 1 cấp để làm răn cho những kẻ hèn nhát”. Đổi bổ Nguyễn Tri Phương làm Tuần phủ Vĩnh Long, hộ lý ấn quan phòng của Tổng đốc Long – Tường, nhưng hiệp với quan quân các đạo đi đánh dẹp ; nguyên án sát An Giang là Nguyễn Thế Trị đổi bổ làm án sát Vĩnh Long ; nguyên án sát Hà Tiên là Hoàng Mẫn Đạt vì kiến thức tầm thường, làm việc hoảng hốt lầm lẫn, chuẩn cho gọi về Kinh, do bộ giáng cấp bổ chức khác. Rồi về tỉnh Hà Tiên có biến động, lại cho lưu lại tỉnh ấy, tuỳ việc sai phái. Nguyễn Tiến Lâm và Nguyễn Tri Phương đem quân đến Hậu Giang tiến đánh các sốc ở sông chính Bông Bọt, đánh được quân giặc, lấy luôn được 5 đồn sở, bọn người Kinh, người nhà Thanh đến đầu hàng ở quân thứ 88 người ; lại sai người đi chiêu dụ bọn thổ dân, các đàn ông đàn bà người nào ra thú đều cấp cho gạo công và tha cho về. Rồi lại đem quân đến đánh sốc Trà Điêu, bọn giặc thua chạy, ta bắt được 25 Thanh phỉ và 1 thổ phỉ, đều đem chém cả, thu được thóc gạo tích trữ của giặc đem cấp phát cho dân nghèo. Vua khen rằng : “Vừa dẹp giặc, vừa vỗ dân, làm một lần mà được cả hai việc”. Thưởng cho Nguyễn Tiến Lâm và Nguyễn Tri Phương mỗi người 1 cái nhẫn vàng khảm thuỷ tinh ; Tôn Thất Nghị 1 cái nhẫn vàng có mặt bằng hạt đỏ ; dưới tên trong sổ khi trước có chua là phải giáng thì nay cho khai phục lại 2 cấp. Còn những người nào dự có công trạng đều được thăng bổ và thưởng cho có thứ bậc. Vua lại dụ rằng : “Bắt sống bọn giặc được 26 tên mà thổ phỉ chỉ có 1 đứa, còn thì đều là người nhà Thanh cả, không khỏi có mối ngờ. Vả lại, trong khi ra trận, tất phải nghiêm sức cho các biền binh phải phân biệt dân với giặc, nếu bọn giặc có kẻ nào cầm khí giới chống lại quan quân, đương trường bắt chém được, mới có thể kể là công trạng, đừng để cho họ giết người bậy, nhận công liều, đem cả những người ốm yếu già lão, trẻ con và dân chúng lương thiện đi tránh nạn, giết phứa cả để lấy thưởng, thành ra lại mắc vào tội. Cái gương của Dương Văn Phong khi trước không xa gì. Còn những thứ tích trữ của giặc mà mình lấy được, cũng nên kiểm điểm để cấp lương cho quân, còn số thừa thì đem chia cấp cho dân nghèo, nhất thiết không nên để cho bọn mưu lợi được lấy của công làm việc riêng, tự tiện đem bán đi”. Nhâm Dần, Thiệu Trị năm thứ 2 [1842], mùa xuân, tháng 1 Đảng nguỵ ở Nam Vang (tức là kẻ nguỵ xưng hoàng tôn) đem cả quân Xiêm, Lào 5.000 người lẻn đến Sách Sô (thuộc phủ hạt Nam Ninh), lại có hơn 10 chiếc thuyền thổ phỉ đến đồn Cần Thăng dòm dỏ. Tổng đốc An – Hà Phạm Văn Điển phi tư cho Đoàn Văn Sách quản lĩnh biền binh đến ngay Hà Tiên sắp đặt công việc, Nguyễn Công Nhàn ngăn giữ đồn Vĩnh Thông, Nguyễn Công Trứ chuyển đi tuần tra ở Tiền Giang. Điển vẫn lưu lại An Giang sắp xếp mọi việc. Vua nghe biết việc ấy, nói : “Kẻ phạm nguỵ xưng, cũng chỉ là nghe có tin đồn. Hoặc giả chúng biết rằng Ba Xuyên đã dẹp yên, đường sông Vĩnh Tế lại bị quân ta ngăn giữ, bọn giặc tàn ở Thất Sơn không còn nơi trốn thoát ; muối, gạo ở Ba Xuyên không chuyển vận đi được, chúng mới đem những đồ vô lại đặt ra danh mục nguỵ lừa dối bọn buôn gian để hòng kiếm thức ăn. Cái nghề hèn mọn như con lừa ở đất Kiềm((1) Kiềm : là đất Quý Châu ở Trung Quốc, xưa không có giống lừa, có người tải một con lừa đến, thả ở chân núi ; hổ trông thấy, trước còn khiếp sợ, sau rồi lần đến bên, biết rằng lừa chỉ có một nghề đá, bèn cắn chết. Người ta cho những kẻ có nghề vụng kém, cũng như con lừa ở đất Kiềm (Kiềm lư chi kỷ).1) ấy, có làm gì được ! Nhưng việc này quan hệ về biên phòng, có chuẩn bị thì khỏi phải lo”. Vua bèn dụ cho thự Tổng đốc Nguyễn Tri Phương sửa soạn binh thuyền sẵn, đợi có tin khẩn báo ở Hà Tiên thì lập tức đem binh thuyền cùng với Lãnh binh Nguyễn Văn Hoàng hoặc Vũ Đình Đàm đi sang để chống giữ. Bọn Lê Văn Đức ở Gia Định, Trương Văn Uyển ở Định Tường cũng đều phải chỉnh bị quân, nuôi sức mạnh và thông tin cho những viên đóng giữ 2 đồn Thông Bình, Tây Ninh phải dò xét tình hình hư, thực của giặc. Lại dụ Phạm Văn Điển và Nguyễn Công Trứ rằng : “Công Trứ trước ở Hà Tiên đã từng xin trở về mau dẹp Thất Sơn để cho yên hết mọi trở ngạnh ở sau sông Vĩnh Tế. Trẫm đã chuẩn y lời xin ấy. Thế mà động gặp bọn giặc linh tinh, đều không dám tiến đánh, lại đặt đồn, đắp luỹ, chỉ làm mệt sức quân, rồi trở về An Giang lần lữa không tiến, lờ mờ không có chủ định như thế, còn ngày nào làm xong việc được ! Theo tình hình hiện nay, nếu xét thấy bọn giặc quả thực mắc mưu lừa dối (của kẻ phao tin) thì nên liệu để biền binh ngăn giữ, rồi họp cả những binh hùng mạnh ở các đại đội tiến đánh, diệt hết bọn giặc tàn ở Thất Sơn, khiến cho chỗ ấy chóng được yên hẳn. Như vậy, các thuyền giặc ở ngoài biển và những bọn giặc linh tinh nghe oai tất phải trốn xa ; không nên nhất nhất chia quân đi chống giữ, thành ra tính lầm !”. Ngay sau đó, Nguyễn Tri Phương lại tâu lên rằng : “Các tỉnh ở Nam Kỳ đều giáp liền với cõi giặc, duy dải sông Tiền Giang là lối thông vào giữa ruột các tỉnh An Giang, Vĩnh Long, Định Tường, xin đem binh thuyền đi tới các đồn Thông Bình, Hùng Ngự (thuộc tỉnh Định Tường), Tân Châu, An Lạc (thuộc tỉnh An Giang), tỏ rõ binh uy để cho giặc biết có phòng bị nghiêm cẩn”. Vua khen rằng : “Việc làm rất phải ! Chính hợp với thời cơ”. Bố chính tỉnh An Giang là Phùng Nghĩa Phương bị bệnh. Vua cho viên án sát Gia Định là Lê Quốc Trinh quyền lĩnh chức Bố chính An Giang, lại cho Hộ khoa Chưởng ấn Cấp sự trung Lê Chân thăng thự Lang trung bộ Hộ, quyền lĩnh án sát tỉnh Gia Định. Chưa bao lâu, Nghĩa Phương khỏi bệnh, Quốc Trinh lại trở về lỵ sở cũ, Lê Chân lại về Kinh cung chức. Cho : thự Phó vệ uý Tả vệ dinh Long võ Tống Bẩm điệu bổ là thự Phó vệ uý Hữu vệ nhị dinh Vũ lâm ; Phó vệ uý Tiền vệ dinh Tiền phong Phan Công Thành làm Phó vệ uý Tả vệ dinh Long võ ; Phó vệ uý vệ Hổ oai Lê Tô làm Phó vệ uý vệ Tiền dinh Tiền phong ; Phó vệ uý vệ Hổ oai nhất Nguyễn Lợi làm Phó vệ uý Hậu vệ ; Phó vệ uý Tả vệ dinh Tiền phong Nguyễn Thanh thăng thự Vệ uý Tiền vệ dinh Hùng nhuệ ; nguyên thự Phó vệ uý Nguyễn Hữu Lợi đổi bổ làm thự Phó vệ uý Tiền vệ dinh Long võ. Tổng đốc An – Hà là Phạm Văn Điển và lĩnh Tuần phủ An Giang là Nguyễn Công Trứ tâu lên rằng : “Tỉnh Hà Tiên thám biết : tên thổ phỉ Phi Phủ họp binh ở Chân Sâm, muốn đến sông Vĩnh Tế quấy nhiễu, những thuyền của bọn đầu mục giặc đóng ở phận biển Quảng Biên hẹn nhau chia 2 đường thuỷ bộ đến đánh Hà Tiên. Về phận sông Ba Nam, 2 bên bờ đều có đồn trại, thuyền bè của bọn thổ phỉ, mưu định gây việc. Vả lại, bọn thổ phỉ ở Ba Xuyên, Thất Sơn chưa trừ hết, mà ở Hà Tiên, Tiền Giang có tin báo nguy cấp ấy thì những đồn Đa Phước, Lô Khu ở Hậu Giang, đồn Cần Thăng ở Cam La và những đồn Tiên Nông, Vĩnh Điền ở Vĩnh Tế không thể không phòng bị trước cho nghiêm cẩn. Vậy xin lưu những biền binh vẫn đóng trước và những binh mới đóng, mới đưa đến, cứ theo các đạo để đủ sai phái”. Vua nghe theo. Vua lại dụ rằng : “Phạm Văn Điển và Nguyễn Công Trứ đều là bề tôi có tiếng đã lâu, trước ở Trấn Tây, giữ mãi không thành, mặc cho bọn thổ phỉ lan khắp, đến khi về An Giang, mong những trước dẹp Ba Xuyên, sau đánh Thất Sơn, tuyệt đường đi lại kiếm chác của giặc, và cho quân dân nghỉ ngơi, ngồi chặn chỗ hiểm yếu để cho quân giặc tất đến phải chết. Thế mà đến nay, ở Ba Xuyên chưa quét sạch hết, ở Thất Sơn không tiến được bước nào, và cứ sai đi do thám lung tung, không được tin gì đích xác ! ở quân, động một tý là hấp tấp : nay dựng đồn lớn, mai đắp luỹ to, việc nhiều, sức mệt, không lúc nào thôi (tháng chạp năm trước, Nguyễn Công Trứ làm tờ tâu xin đặt 2 đồn Tiên Nông, Vĩnh Điền, lại sửa đắp luỹ dài ở 2 đồn ấy), như vậy, không chút nắm vững, cử động trái ngược, chỉ làm cho quân giặc coi khinh mà thôi. Sao không nghĩ : thuyền giặc nghênh ngang ngoài biển đã gần 3 tháng, lúc tiến lúc lui, chưa từng một lần nào cùng với Hà Tiên đối địch, thì chẳng qua chúng khoe thanh thế hão, có thể thấy rõ nghề mọn như con lừa của chúng thế là đã cùng. Huống chi, binh ở Hà Tiên đã có hơn 3.000 người, lại có đạo binh của Đoàn Văn Sách đến tập hợp, pháo đài ở Kim Dữ đặt cao, bắn xa ; bọn kia dù có đến trăm vạn quân thuỷ cũng không thể bay sang được, mà kẻ phạm nguỵ xưng ở Ba Nam ngu dại không biết, vẽ trò trẻ con, há lại dám vô cớ đến nộp mạng sao ? Vả lại, tỉnh An Giang nhiều lần cắt quân đến và các tỉnh phái binh sang, số binh không kém vài vạn, nếu bọn chúng dám đến thì tình hình chủ với khách khác nhau đã rõ, há không đủ sức diệt bọn ấy rồi ăn cơm sáng [cũng vừa], hay sao ? Nay xa giá Bắc tuần, trẫm nghĩ đến chỗ trọng địa biên thuỳ, mùa đông năm ngoái đã phái sẵn 8 vệ quân hùng mạnh và thêm biền binh sung sức ở 2 vệ cơ Nam, Ngãi đi đóng giữ Gia Định, Định Tường trước. ở Kinh, lại chỉnh bị sẵn thuyền lớn bọc đồng, binh khí tinh đủ, nếu có khẩn cấp, thuận dòng xuống Nam, chẳng qua trong khoảng một tuần cũng có thể kịp việc. Các ngươi đều là bề tôi quen thạo chinh chiến, cần thiết là nên giữ yên lấy lòng người. Việc biên phòng cố nhiên không thể sơ suất, nhưng cũng không thể vội tin những tin do bọn thám tử nhặt sai. Phải nên xét kỹ mà làm, khiến giặc sợ oai, trốn xa, để khỏi mối lo cho triều đình về mặt Tây, thế mới xứng đáng với sự uỷ thác. Nên cố mà làm”. Nhâm Dần, Thiệu Trị năm thứ 2 [1842], mùa xuân, tháng 2 Bọn thổ phỉ đến quấy nhiễu đồn Thông Bình (thuộc tỉnh Định Tường), lại đắp đồn ở xứ Chi Ty ngăn chặn sông nhánh, đường quan báo bị nghẽn. Thự Tổng đốc Long – Tường Nguyễn Tri Phương được tin, liền đem 800 biền binh tiến đến sốc Chính Đôn, giặc đến đón đánh trước, quan quân 2 mặt thuỷ bộ giáp công, giặc bỏ đồn tan chạy. Quan quân bắn chết được 26 tên, liền sai phá huỷ đồn giặc, khai thông đường sông bị chặn trước, lại đắp đồn ở xứ Chi Ty, đặt tên là đồn Cửu An, trích quân đóng giữ để làm nơi tiếp viện cho những đồn Thông Bình, Hùng Ngự. Bỗng tiếp tin các đồn trại ở Tiền, Hậu Giang và sông Vĩnh Tế, thổ phỉ kéo ùa đến quấy nhiễu, Nguyễn Tri Phương lại đi gấp sang An Giang, cùng với bọn Phạm Văn Điển hội hợp đánh dẹp. Vua cho rằng : Tri Phương đi chuyến này đúng với cơ hội, tuy không bắt được tướng giặc, chém được đầu giặc, nhưng có trận được vừa rồi cũng đủ làm cho thanh thế vang dội, bèn thưởng cho quân công kỷ lục 2 thứ và 1 đồng kim tiền. Các tướng sĩ tham dự trận này đều được ban thưởng có thứ bậc. Sai Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Tiến Lâm án ngữ sông Tiền Giang ; Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Công Nhàn án ngữ sông Vĩnh Tế ; Phạm Văn Điển, Nguyễn Lương Nhàn án ngữ mặt Hậu Giang. Trước đây, tại An Giang vì số binh trong tỉnh chia phái đi nhiều ngả, nên mới tư cho quân thứ Ba Xuyên phái binh đến giúp. Bọn Nguyễn Tiến Lâm lấy cớ vì chưa tiễu diệt được hết thổ phỉ, không chịu đến giúp, vua nghe biết việc ấy, phạt giáng Nguyễn Tiến Lâm, Nguyễn Lương Nhàn và Tôn Thất Nghị xuống 2 cấp, lưu tại chức, và sai phải đi ngay sang An Giang hội hợp đánh dẹp. Lúc ấy thổ phỉ kết bọn hàng trăm, hàng nghìn, vây quanh các đồn Tân Châu, An Lạc, Hùng Ngự, Thông Bình, phá luôn huyện lỵ Đông Xuyên. Vua lại sai Tri Phương, Công Nhàn chia đường đến án ngữ, đều do tổng thống, tham tán và tán lý đại thần xem xét công việc mà cắt đặt. Nhâm Dần, Thiệu Trị năm thứ 2 [1842], mùa xuân, tháng 2 Bọn Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Công Nhàn tâu lên rằng : “Tại dải sông Vĩnh Tế, bên hữu ngạn từ Vĩnh Thông đến Tiên Nông, bên tả ngạn từ Vĩnh Lạc đến Tĩnh Biên, bọn thổ phỉ kết đồn trại liên tiếp, thừa dịp vây bắn vào Tân Châu, An Lạc ở Tiền Giang, Đa Phước, Cần Thăng ở Hậu Giang, càng ngày càng vây bức mà hiện số quân ta có ít, phòng giữ không đủ. Còn ở Hà Tiên hiện nay đã hơi thư việc, chúng tôi đã tư cho Đoàn Văn Sách chuyển về giúp sức đánh dẹp. Nhưng Sách cho rằng thuyền giặc hãy còn đỗ ở ngoài biển Quảng Biên, hiện Sách đương chỉnh quân sắp thuyền tuỳ cơ tiến đánh, chứ không chịu trích phái quân đi giúp. Chúng tôi trộm nghĩ : Sách làm việc ấy có 3 điều bất tiện : 1. Trong khi đại giá ra Bắc, không nên vội khai mối hiềm khích với nước bên ; 2. Có bọn giặc to ở sau lưng mà lại vượt xa ra ngoài biển ; 3. Vĩnh Tế là đường sau tỉnh Hà Tiên, nếu bị cắt đứt thì Hà Tiên không thể giữ được. Cân nhắc cho thích hợp trước, sau, hoãn, cấp, thì nên chuyển về An Giang, đợi cho đường sau dẹp yên, rồi hãy tuỳ cơ tiến đánh”. Vua thấy tâu, quở trách rằng : “Giặc Xiêm hôm nọ bị quan quân Hà Tiên chặn đánh, đã sợ oai, đêm trốn, thì ngoài ra, các đường Tiền, Hậu Giang, Vĩnh Tế chẳng qua là bọn giặc tàn linh tinh, chắc rồi cũng phải tan chạy. Huống chi giặc Xiêm vô cớ cất quân xằng bậy, giúp bọn làm càn, chính nên thừa lúc chúng thua chạy về, đánh riết một phen để chúng vĩnh viễn không dám lại tới dòm dỏ. Sao bảo là “khai hiềm khích với nước bên”, mà nêu ra 3 điều không tiện ? Thật đáng khinh bỉ ! Lại như một đường Vĩnh Tế trước chỉ có 1 Nguyễn Công Nhàn đóng giữ cũng còn chặn được nơi hiểm yếu để giữ vững. Nay đã có Nguyễn Công Trứ lại có Tôn Thất Nghị đem binh tiếp đến, chắc đã thừa sức, lại còn muốn Đoàn Văn Sách đến cùng họp một chỗ, sao kiến thức kém đến thế ? Phải biết : kẻ khéo giữ thì địch không biết lúc nào mình đánh. Nay theo một dải sông dài, đo đất chia người, ven bờ đóng giữ, há chẳng làm cho binh mệt sức mà tỏ cho người biết là mình nhát sao ? Công Trứ, vốn gọi là biết dùng binh, sao lại tính đến thế, thật không thể hiểu !”. Rồi đó, Công Trứ mắc bệnh, vua cho Nguyễn Công Nhàn kiêm lĩnh cả số binh, liệu cơ phòng giữ hoặc tiến đánh. Không bao lâu, Sách cũng bị bệnh, cho về An Giang điều dưỡng, sai Nguyễn Lương Nhàn đến thay. Nhâm Dần, Thiệu Trị năm thứ 2 [1842], mùa xuân, tháng 3 Tổng đốc An – Hà là Tín Vũ hầu Phạm Văn Điển đánh phá tan quân thổ phỉ ở Hậu Giang. [Trước đây] quân Xiêm đã lui, bọn thổ phỉ lại đến chỗ thượng lưu đồn Đa Phước, hai bên tả, hữu theo các bụi tre dựng lên đồn luỹ, bày hàng thuyền, xuồng. Quân giặc có độ hơn 3.000 tên, dựa vào chổ hiểm để chống giữ. Điển cho rằng bọn đầu mục của giặc phần nhiều ở tả ngạn, ta đánh phá các đồn ấy trước thì những đồn ở hữu ngạn không đánh cũng tự vỡ, bèn sai bọn sung thí Phó vệ Trần Kim, Quản cơ Lê Đình Lý, Vệ uý Nguyễn Văn ổn chia lĩnh hơn 1.000 biền binh, trước hết đến đồn giặc ở tả ngạn, thuỷ bộ 2 mặt giáp đánh. Trần Kim lên đồn giặc trước, binh đinh chỉ có 20 người, Kim liền tay đâm 2 tên, chém được 1 đầu giặc, quyền thí Suất đội Trần Linh cũng chém được 1 đầu. Bọn giặc kéo ùa lại đánh rối loạn. Kim bị giặc chém vào vai bên tả, gãy xương ; Linh cũng bị đạn xuyên vào hông bên tả. Ngoại uỷ đội trưởng Nguyễn Mô, tay cầm dao, đến tiếp cứu ; dao bị gãy, Mô lại cầm chuôi dao đánh 1 tên giặc chết luôn, rồi che đỡ cho Kim và Linh ra khỏi trận. Lê Đình Lý, Nguyễn Văn ổn tiếp đến, hợp sức giáp đánh, giặc đều tan chạy. Quân quan lại sang đồn giặc bên hữu ngạn, đánh tràn. Giặc đều bỏ chạy. Lập tức phá huỷ các đồn luỹ, chia đường theo bắt giặc, thu được rất nhiều khí giới. Nghe tin thắng trận, vua phê bảo rằng : “Tín Vũ hầu được đại thắng, rất đáng khen ngợi, thật không phụ là một viên tướng lão luyện thời nay !” Lập tức truyền dụ cho hoàng tử, đại thần lưu Kinh rằng : “Giặc Xiêm trái trời, ngược lẽ, gây bậy mỗi hiềm, kết bè với Lạp Man dồn quân ở nước vào lấn cướp, trẫm đã trù tính trước khi xảy việc, sai tướng phòng giữ biên cương. Trước đây, giặc bị Đề đốc Vĩnh Long, Anh dũng tướng Đoàn Văn Sách, bắn giết ; đường thuỷ đều yên tĩnh. Nay An – Hà Tổng đốc Tín Vũ hầu Phạm Văn Điển đánh phá quân Xiêm, Thổ, dẹp yên đường bộ. Lòng trẫm rất vui mừng ! Từ nay, biên cương được yên, tướng sĩ được nghỉ ngơi, thật toàn nhờ về uy Phước của tổ khảo ta để lại cho đó !”. Rồi vua sai Vệ uý vệ Kim ngô Lê Viết Chuyên mang cờ đỏ đi tuyên bảo khắp nơi, lại sai đưa về Kinh để cho trong ngoài đều được biết rõ. Thưởng cho Phạm Văn Điển 1 đồng kim tiền Song long hạng trung có dây đeo, 1 chiếc nhẫn vàng mặt thuỷ tinh liên châu và gia quân công 1 cấp ; thưởng thụ cho Trần Kim chức Phó quản cơ, gia quân công 1 cấp, kim tiền hạng nhỏ và nhẫn vàng mỗi thứ 1, lại 1 chiếc tử kim bài có chữ Thưởng công và 5 lạng bạc ; thưởng thụ cho Trần Linh Chánh đội trưởng suất đội, 3 đồng ngân tiền ; Nguyễn Mô cũng bổ lên suất đội, thưởng 4 đồng ngân tiền lớn, 1 chiếc tử kim bài có chữ Nghĩa dũng. Còn những người dự có công trạng đều thưởng ngân bài, ngân tiền có thứ bậc. Binh đinh thì thưởng chung cho 80 quan tiền. Phạm Văn Điển thấy ở sông Vĩnh Tế còn có đồn giặc đóng giữ, lại đem binh thuyền đi đến quân thứ Vĩnh Thông, bàn với Nguyễn Công Nhàn, Nguyễn Lương Nhàn tuỳ cơ đánh dẹp. Bỗng tỉnh Hà Tiên gấp báo : có hơn 50 chiếc thuyền giặc hiện còn thả neo đỗ ở đảo Phú Quốc ; binh thuyền ở Gia Định phái đi, đã đến Kim Dữ, đóng ở ngoài biển nên đem vài chục chiếc thuyền vượt biển, đi mau đến đó hội họp cắt đặt. Điển cho rằng : tại Hà Âm và Hà Dương, bọn giặc chưa dẹp yên, nếu lại theo mặt khác vượt biển đón đánh quân giặc thì cũng chưa hợp với việc nên làm, chi bằng trước hãy đánh dẹp Hà Âm rồi đến Thất Sơn để cho mất hết cái lo bên trong, rồi sẽ mưu tính đặt lại sở Phú Quốc. Vua nghe biết việc ấy, cho rằng Điển làm việc hợp với cơ nghi, dụ rằng : “Nên nhân khí thế đương mạnh, thẳng tiến phá ngay Thất Sơn, dẹp cho hết bọn giặc còn sót, thì cái đất bé nhỏ bằng hòn đạn, nốt ruồi ấy khó gì mà không giẫm nát. Duy ở chỗ ấy, địa thế hơi hiểm, nếu lùng khắp núi để bắt loài thú thì nên xét kỹ cơ nghi, chớ cậy mình thường thắng, thiên chấp ý riêng, có khi lỡ việc. Nên hết sức cẩn thận!”. Bọn Phạm Văn Điển, Nguyễn Công Nhàn đánh phá tan quân Xiêm, thổ phỉ ở Hà Âm. Tháng trước, hơn 20.000 quân thổ nước Xiêm theo một dải trường luỹ từ Vĩnh Điền đến Tiên Nông, kết đồn liên tiếp đóng giữ, mưu đồ đánh phá. Bấy giờ ở Hà Âm, Hà Dương đều có bọn giặc làm trở ngại, nhất là ở Hà Âm lại nhiều hơn. Trước đây, vua đã dụ sai bọn quân thứ ở Ba Xuyên đã thư việc : thự Chưởng vệ, Lãnh binh An Giang Nguyễn Lương Nhàn, Vệ uý Phó lãnh binh Tôn Thất Nghị đều đem quân bản bộ đi mau đến Vĩnh Tế, hội hợp đánh dẹp. Đến khi Phạm Văn Điển dẹp yên bọn giặc ở mấy xứ Hậu Giang, Đa Phước, uy danh lừng lẫy, mới nhân đội quân đắc thắng, đem đến cùng vây giặc. Gặp lúc ấy hương binh ở 2 tỉnh Vĩnh Long, Định Tường giải đến và binh ở Hà Tiên rút về, chia đặt đi các đường. Quân quan hiện tại binh dõng chỉ có hơn 5.000 người. Điển thấy một dải Hà Âm, giặc kết liên 8 đồn, lại dựa vào trường luỹ đắp thành gần các thành, đồn Vĩnh Thông, Tiên Nông, Thôn Nhân, Vĩnh Lạc, mưu đồ đánh phá, thế giặc rất mạnh, bèn cùng các tướng bàn rằng : “Giặc nhiều, ta ít, nếu ta nhất tề tiến đánh thì chúng sẽ phải chia binh ra ; nếu chúng có quân viện ở ngoài cũng khó lòng tiếp ứng được”, liền cắt Đoàn Quang Mật đem hơn 1.000 binh đánh đồn bên tả của giặc, Tôn Thất Nghị đem hơn 500 binh để tiếp ứng ; Nguyễn Lương Nhàn đem hơn 600 binh đánh đồn hữu của giặc ; Nguyễn Công Nhàn đem hơn 1.300 binh tiến đánh 3 sở đồn giữa. Điển tự đem hơn 1.600 binh đi để làm tiếp viện. Đồn giặc 5 sở, bọn giặc ở mỗi đồn hơn 2.000 tên, hoặc giữ hiểm bắn ra, hoặc ra đồn chống đánh. Quan quân giao chiến với giặc, đồn tả của giặc vỡ trước, Đoàn Quang Mật và Tôn Thất Nghị chuyển về đạo binh của Nguyễn Công Nhàn để hợp sức đánh. Phó vệ Dương Thai chém luôn 5 đầu giặc tại trận, Phó cơ Nguyễn Tuấn chém được 2 đầu, các tướng khác đều hăng hái tranh tiến, tiến đánh. Quân giặc, 13 trại ở trong rừng, mỗi chi ước 2.000 tên, do đường rừng kéo ra tiếp viện. Phạm Văn Điển sai Phó quản cơ Dương Hựu, Phạm Phước Minh đều đem quân bản chi chặn đánh ; Nguyễn Lương Nhàn lại sai Nguyễn Văn ổn, Phan Pháp, Hồ Bích đem một toán quân đánh úp phía sau. Bị trong ngoài giáp đánh, giặc lại phải rút vào rừng, lủi trốn. Tướng giặc bỏ cả tàn lọng, voi, ngựa, một mình chạy lẩn như chuột. Các đồn giặc đều bị quan quân bao vây, đầu cuối không tiếp ứng được nhau, chỉ trong chốc lát, các đồn đều tan chạy hết ; 13 trại giặc ở ven núi không đánh cũng tự vỡ. Quân ta dồn sức đuổi bắt, chém được 448 đầu, đâm trúng 225 tên, bắn chết 339 tên, thu được 1 khẩu súng lớn kiểu Tây dương (sau vua cho tên súng là “Bình Xiêm xung tiêu pháo”, 6 cỗ súng phách sơn, 7 cỗ súng hồng y, 12 cỗ súng quá sơn, 2 khẩu súng thần công, 105 cây súng điểu sang, bắt được đạn dược, súng, thuốc súng, giáo, gươm không kể xiết. Lại thừa thắng tiến đánh 3 sở đồn giặc, tới nơi, quân giặc đều bỏ đồn chạy trốn, bèn sai quân sĩ đốt cháy hết một lượt. Nghe tin thắng trận, vua phê bảo rằng : “Phạm Văn Điển, Nguyễn Lương Nhàn, Đoàn Quang Mật, với số quân 5.000, giết bọn giặc 20.000, không đầy 3 khắc hạ luôn 8 đồn, tại trận, bêu 7 đầu tướng giặc, giết quân giặc hàng nghìn, hàng vạn. Cái tài dẹp giặc như thế, gần đây, ít thấy. Thật là nhờ ở hoàng thiên mến tựa bản triều, nương ở uy linh hoàng tổ, hoàng khảo, tướng sĩ theo mệnh, xung phong giết giặc, thành được cái công lớn này, trẫm xiết bao mừng cảm, khen ngợi !”. Bèn xuống dụ : đặc cách gia ơn, ghi công lên các lá cờ cho Phạm Văn Điển : trước phạm lỗi nặng vì dời quân, đã chuẩn cho giáng bổ, nay nắm vững được cơ mưu, dẹp yên giặc Xiêm thổ, công ấy rất tốt, vậy thưởng thụ Đô thống Tả quân Đô thống phủ và vẫn lĩnh Tổng đốc An – Hà, lại gia thưởng một chiếc nhẫn vàng ngự dung mặt ngọc hoả tề có chạm kim cương 8 hạt liên châu dát vào, 1 chiếc “Phú Thọ bạch ngọc bội bài” hạng lớn có dây đeo kết san hô, trân châu, 1 quả bằng vàng có dây đeo kết hạt thuý ngọc, 1 chiếc trấn chỉ. Thự Đề đốc Nguyễn Công Nhàn : phân phái đúng phép, điều độ hợp nghi, đem 1 đạo binh phá tan 3 sở đồn giặc, chiếm đâu giữ được đấy, đánh đâu thắng đến đấy, có trí làm được vạn toàn, vậy thưởng thụ ngay Đề đốc An Giang, gia quân công 1 cấp, lại thưởng 1 chiếc nhẫn vàng ngự dung, mặt ngọc hoả tề có chạm kim cương 7 hạt dát vào, 1 chiếc “Phú Thọ bạch ngọc bội bài” hạng lớn có dây đeo kết san hô, trân châu, “Kim tiền phú thọ đa nam” lớn nhỏ mỗi hạng 1 đồng. Vả lại, viên Đề đốc này phụng mệnh phòng giữ đường sông Vĩnh Tế gần hơn 1 tháng khuyên nhủ, rèn luyện các tướng sĩ đều có sức khoẻ và biết lễ phép ; nay lại biết tính trước quyết thắng ; mạo hiểm phá giặc, khiến cho bọn đầu mục Xiêm thổ không dám dòm ngó nữa, những tỳ tướng dưới quyền thì chém được tướng giặc tại trận, quân sĩ thì giết được quân Xiêm thổ, trong 1 trận dựng nên kỳ công, càng thấy công danh rõ rệt ! Vậy riêng thưởng gia quân công 1 cấp, 1 chiếc nhẫn ngự dung mặt ngọc kim cương hạt to, 1 đồng kim tiền Song long hạng rất lớn có dây đeo. Lại dụ 2 bộ Lễ, Binh ghi tên đợi đến sau khi vua hết tang, tâu xin phong tước để đáp lại cái công lao đặc biệt. Ba viên thự Chưởng vệ Lãnh binh Nguyễn Lương Nhàn, Phó vệ uý quyền Lãnh binh Đoàn Quang Mật, Vệ uý lĩnh Phó lãnh binh Tôn Thất Nghị đều đã thân đốc biền binh của đạo mình, ra sức đánh giết, khiến cho quân giặc không thể tiếp viện được nhau, vỡ tan trong 1 trận, nghề hèn của chúng không thi thố được ; ba viên ấy đủ có thực trạng về chiến công. Vậy Nguyễn Lương Nhàn, thưởng thụ ngay Chưởng vệ, gia quân công 1 cấp, lại thưởng 1 chiếc nhẫn vàng mặt ngọc hoả tề hạt to, 10 hạt kim cương nhỏ dát vàng, 1 chiếc, “cát tường bạch ngọc bội bài” có dây đeo kết san hô, trân châu, 1 đồng kim tiền Phú thọ đa nam hạng lớn ; Đoàn Quang Mật, thưởng thự Vệ uý gia quân công 1 cấp, lại thưởng 1 chiếc nhẫn vàng mặt ngọc hoả tề, kim cương 3 hạt liên châu dát vào, 1 chiếc “cát tường bạch ngọc bội bài” có dây đeo kết san hô, 1 đồng kim tiền Song long hạng trung ; Tôn Thất Nghị, thưởng gia quân công 1 cấp, lại thưởng 1 chiếc nhẫn vàng mặt thuỷ tinh liên châu, 1 chiếc bạch ngọc bội bài có dây đeo, 1 đồng kim tiền Song long hạng nhỏ. Tất cả ba viên đều được ghi tên, vẫn làm chức việc Lãnh binh. Viên Phó vệ uý Dương Thai ra sức tiến trước đánh giết giặc, chém luôn 5 đầu tướng giặc, xưa nay viên tưởng nhỏ chưa có ai mạnh bạo, nhanh nhẹn được như thế ! Vậy thưởng ngay 1 chiếc kim bài có chữ “Kiêu dũng tướng”, cho đeo để nêu rõ công trạng ; lại thưởng thụ Vệ uý, gia quân công 1 cấp, 1 chiếc nhẫn vàng mặt ngọc hoả tề, kim cương 3 hạt dát vào, 1 chiếc “bạch ngọc bội bài” có dây đeo, 1 đồng tiền vàng Phú thọ đa nam hạng trung. Ngoài ra, các tướng biền lớn nhỏ, không ai là không hăng hái, nổi lòng công phẫn, ra sức giết giặc, có những người xông lên trước để phá trận, có những người chém đầu giặc luôn lúc ấy, đều tuỳ theo công trạng mà hậu thưởng hoặc thăng thụ, cất bổ chức hàm, lại gia thưởng quân công cấp kỷ và thưởng bài đeo bằng vàng tía, bằng bạc hay nhẫn vàng, kim, ngân tiền hạng lớn, hạng nhỏ có thứ bậc. Lại trước hết thưởng chung cho các binh dõng đi trận ấy tiền 3.000 quan. Sau đó, vua dụ bọn Điển dời quân hợp sức đánh các xứ Thất Sơn, Sách Sô. Điển cho rằng : địa thế ở Thất Sơn hiểm yếu, chưa thể dẹp yên gấp ngay được, duy Sâm Phủ là chỗ đất tất phải đi qua, nên hợp sức đánh trước để chặn chỗ hiểm. Nhân trích để lại hơn 2.000 binh dõng, sai Lãnh binh Đoàn Quang Mật quản giữ các đồn trại thuộc đường sông Vĩnh Tế, còn đều đem đi đánh xứ Sâm Phủ. Điển cùng với Nguyễn Công Nhàn, Tôn Thất Nghị do đồn Tiên Nông dời đến Ba Thứ, giặc đều bỏ đồn chạy. Hôm sau, tiến đến Bàn Ly, chỗ này bên tả có núi Cấm Sơn, bên hữu có núi ốc Dâm, địa thế rất hiểm, rừng cây sầm uất, gai góc liền từng bụi, trong có luỹ dài chặn ngang, quân giặc giữ hiểm chống cự. Điển đặt 3 đồn sở ở xứ Bàn Ly, tự đóng giữ lấy, sai Nguyễn Công Nhàn đem 1.000 binh theo đường núi ốc Dâm, Tôn Thất Nghị đem 1.000 binh theo đường núi Cấm Sơn, đều nhân ban đêm, đi xuyên sơn, đến sáng đều tới phía sau luỹ giặc. Bọn giặc sửng sốt kinh hãi, chia các mặt để chống giữ. Quan quân hết sức đánh mạnh, giặc đều tan chạy. Quản cơ Trần Tri ráng sức tiến lên, xông vào luỹ giặc trước, các quan kế tiếp xông vào, phá tan luỹ dài, bắn chết 164 tên, đâm trúng 32 tên. Tin báo tới nơi, vua khen bọn Điển khéo ra quân kỳ, đánh lấy quyết thắng. Phạm Văn Điển, Nguyễn Công Nhàn, Tôn Thất Nghị, đều thưởng gia quân công 1 cấp ; Nguyễn Lương Nhàn, quân công kỷ lục 3 thứ ; Trần Tri, quân công kỷ lục 2 thứ ; riêng thưởng 1 chiếc nhẫn vàng. Các biền binh đi đánh trận ấy đều ban thưởng có thứ bậc. (Từ quân thứ Vĩnh Tế đến Kinh, lại chuyển đến Hà Nội 108 trạm, cộng 3.326 lý, ngựa chạy đưa đi chỉ hết 11 ngay). Thự Tổng đốc Long – Tường Nguyễn Tri Phương tiến đánh Tiền Giang, phá tan quân giặc. Khi ấy, Phương ở An Giang chuyển về đến trại Hùng Ngự, nghe tin có bọn giặc ước hơn 2.000 tên vây đánh đồn Cửu An, lại dựng trại ở nhánh sông Chính Đôn, chặn ngang lòng sông, Phương tức thì đốc suất biền binh chia đường tiến đánh, mở được 9 chỗ sông bị chặn. Tạ Văn Linh, đóng giữ chỗ ấy, thừa thế, mở đồn, hợp sức đánh, bọn giặc đều bỏ trại, tan chạy ; quân ta đuổi theo, đánh phá tan hết. ở 2 trại Tân Châu, An Lạc cũng bị bọn giặc đến nhiễu, bọn Nguyễn Văn Hoà, Vũ Đình Đàm, đóng giữ đấy, tung binh ra đánh : giặc chết và bị thương rất nhiều. Nghe tin thắng trận, vua mừng nói : “Hà Tiên, Vĩnh Tế, Tiền Giang, Hậu Giang, lần lượt dẹp yên, thật đỡ sự lo cho trẫm về mặt Nam”. Vậy thưởng cho Nguyễn Tri Phương quân công 1 cấp, nhẫn mặt ngọc hoả tề, kim cương 3 hạt liên châu, quả bằng vàng và đồng hồ mỗi thứ 1 ; Vũ Đình Đàm, gia quân công 1 cấp, nhẫn vàng, kim tiền Song long mỗi thứ 1 ; Tạ Văn Linh, nguyên Lãnh binh bị giáng, nay được phục chức ; Phó vệ uý, Lãnh binh Nguyễn Văn Hoà, quân công kỷ lục 2 thứ, 1 chiếc nhẫn vàng. Các viên võ chức và binh dõng đi đánh tâu rằng : “Những biền binh thuộc tỉnh tình nguyện đi giết giặc lập công gồm có hơn 100 người, xin ghép vào làm chiến sĩ 2 đội nhất, nhị để đủ sai phái. Vua y cho thưởng tiền cho mỗi người 1 quan, đợi có công trạng sẽ liệu lục dùng. Nhâm Dần, Thiệu Trị năm thứ 2 [1842], mùa hạ, tháng 6 Lê Văn Đức, Nguyễn Công Nhàn, Nguyễn Tri Phương, Lê Khắc Nhượng và Tôn Thất Nghị đem 6.000 biền binh, tiến thẳng đến Sách Sô (thuộc địa hạt huyện Nam Thịnh, phủ Nam Ninh kiêm lý) để đánh dẹp. Vua nghe biết, nói rằng : “Chỗ ấy, giặc mọn, hà tất phải phái nhiều biền binh, há chẳng làm mệt sức mọi người ru?”. Lại dụ Lê Văn Đức rằng : “Chỗ ấy nếu còn bọn nguỵ phạm tụ tập thì nên thừa cái thế chẻ tre, tiễu diệt cho mau để hết sạch mầm mống còn sót. Nếu chúng đã trốn xa, vào tận rừng cùng kiệt, thì đem ngay một dải đất như những huyện Nam Ninh, Nam Thái, lựa tuỳ sự thế, hoặc nên giao cho người Thổ đã quy thuận, cho họ chức hàm và liệu cấp lính Thổ cho lưu lại để giữ như việc cho Mộc Tức quyền lĩnh Phủ uý đó. Tại Hà Âm, Hà Dương cũng đều đặt quan chức người Kinh, người Thổ, khiến cho tự đi chiêu dụ. Nếu sự thế có chỗ chưa tiện thì cũng nên một phen sắp đặt thật kỹ, chỉnh đốn việc biên cương, khiến cho việc có đầu mối, để đợi toan tính về sau. Vả, quan quân của ta bị khó nhọc ở ngoài đã lâu, đến nay 3 năm, không phải là trẫm không nghĩ tới cái khổ của người đi xa, chỉ vì trong lúc biên thuỳ có việc, không thể không lại phiền dùng binh lực. Nay sự cơ đã gần được thuận tiện, bọn giặc đã gần dẹp hết, các ngươi nên tuỳ việc liệu làm để cho biên cương vững chắc, quân ta sớm được nghỉ ngơi, mới không uổng công chuyến đi này và xứng với sự uỷ thác”. Bọn Tổng đốc Lê Văn Đức, thự Tổng đốc Nguyễn Tri Phương tiến binh đến Sách Sô, từ Thuận Cảng chuyển ra sông Tiền Giang, đi ngược dòng lên, qua Tân Châu, An Lạc và cửa cảng Ba Nam. Bọn giặc bỏ đồn, tan chạy trước. Đạo quan quân đi trước, đến bến Sách Sô, thấy vài trăm tên giặc ẩn nấp, liền đem đại bác bắn dữ dội, giặc liền tan chạy. Quan quân chia đường tìm nã bắt sống được 6 tên thổ phỉ ; tra hỏi, chúng nói : Trận đánh ở Hà Âm bữa trước, quân Xiêm Man thua to, bị thương và chết rất nhiều. Tên đầu mục giặc là Chất Tri đã đem tên phạm nguỵ xưng về Trấn Tây. Bọn Đức bèn theo đường tiến đến các đồn quân Man. Bọn giặc đều đã nghe oai, trốn xa, bỏ hết nhà ở, tuyệt không có của chứa gì cả. Đức sai đốt hết những chỗ chất chứa, quy tụ của giặc, rồi ai nấy đem binh thuyền trở về An Giang. Nguyễn Công Nhàn, Nguyễn Tri Phương và Tôn Thất Nghị đều về lỵ sở cung chức. Bọn Lê Văn Đức, Lê Văn Phú và Lê Khắc Nhượng về Gia Định. Trước đây, vua sai viện Cơ mật viết thư gửi cho Lê Văn Đức rằng : “Toàn hạt Trấn Tây sự thể rất quan trọng. Phàm những công việc phải xếp đặt nên xét kỹ tình hình, lại nhận thêm sự thế, nếu có thể thừa cơ đem quân đắc thắng tiến luôn đuổi đánh để chỉnh đốn lại bờ cõi thì nên lập tức phái đi cho kịp việc. Đó là thượng sách. Nếu vì binh sĩ lâu ngày mỏi mệt và địa thế rộng rãi, chưa thể một chốc dẹp yên, muốn tìm cách khác dùng Man đánh Man, thì tên Yêm chính là lúc có thể dùng được. Nếu hắn quả một lòng quy phụ triều đình, nghĩ mưu báo đáp thì liệu cấp cho vài nghìn lính Thổ, giao hắn quản lĩnh, lại phái thêm 2 cơ binh ở Nam Kỳ((1) Nam Kỳ : Thực lục chép là . Ngờ in lầm. Có lẽ là mới đúng.1), một cơ ở Tả kỳ((2) Tả kỳ : tức Bình Định, Phú Yên, Bình Thuận, Khánh Hoà.2), chọn 1 viên Lãnh binh hay Quản vệ được việc, cho đứng đầu, để quản đốc, sai hắn đi các địa phương Nam Ninh, Nam Thái hay Nghi Hoà, Phong Nhương, chiêu tập thổ dân ; đợi được số dân về nhiều thì cho hắn làm trưởng. Ta sẽ cắt một khoảng đất cho làm hàng rào che chống bên ngoài mà phục tòng về ta như loại phủ, huyện vậy. Rồi chia đồn, đóng ngay các nơi hiểm yếu, cho quân sĩ nghỉ ngơi, dưỡng sức vài năm. Nội trị đã vững, sẽ làm một chuyến to, thu lấy toàn hạt Trấn Tây, thẳng tiến đến bờ cõi nước Xiêm, đánh cho thật dữ khiến chúng không bao giờ còn dám manh tâm quấy rối. Đó cũng là một kế hay. Mấy việc kể trên, xét cho kỹ, nếu có thể làm được thì nên làm tập tâu dâng lên”. Đức bèn tâu rằng : “Bọn Lạp Man mà dám rông rỡ ((1) Rông rỡ : không phục tùng, không sợ hãi.1) như vậy, là cậy có người Xiêm đó thôi. Qua những lần bị quan quân đánh giết, về mặt thuỷ thì nửa đêm phải trốn xa, về mặt bộ thì một trận thua vùi dập, bọn Xiêm, Man chắc đã phải mất vía, chồn lòng. Nay ta nếu thừa thắng, thẳng đánh Trấn Tây, quân giặc chẳng qua như đàn ong, lũ kiến, lại thêm hoảng sợ tiếng gió, tiếng hạc ((2) Do chữ “Phong thanh hạc lệ”. Khi xưa, quân Tần Bồ Kiên bị quân Tấn đánh, thua to, lúc chạy nghe tiếng gió rít, tiếng hạc kêu, đều hoảng sợ, tưởng là tiếng hò reo của Tấn đuổi.2), có thể không đánh cũng tự tan, nhưng xét kỹ tình hình, nhận được sự thế thì đánh được không khó, mà giữ được mới khó. Xin đem thế giặc mà nói : Toàn hạt Trấn Tây vốn là một nước Lạp Man, phần nhiều quen thói ngoan ngạnh, giảo trá, tráo trở, bất thường. Trước kia tuy gọi là lệ thuộc bản đồ nước ta, nhưng chỉ là có cái tiếng suông mà thôi. Chúng đã quên ơn, cắn trả, coi ta là thù [ta đối với chúng] đã thành cái thế cưỡi cọp dữ rồi. Nay muốn chiêu dụ, vỗ về cho chúng ở yên nhưng cái tính khó dạy của chúng vẫn không thể tin, muốn cầu như trước : đặt đất làm quận, huyện, dùng người làm binh, dân, quyết không thể được nữa ! Huống chi địa thế xứ ấy rộng gấp đôi 6 tỉnh Nam Kỳ, nếu muốn dùng binh đánh gấp thì đánh bên đông chúng lẩn sang bên tây, lấp chỗ này lại hở chỗ khác, há có thể một trận mà trừ diệt được cả đâu ? Dù có thể trận nào cũng thắng cả, nhưng há có thể chỗ nào cũng giữ được cả ? Vả, đất ấy rừng rú rậm rạp mà toàn không có chỗ nào hiểm yếu có thể giữ vững, chẳng qua lựa đặt một vài đồn bảo, lưu binh đóng giữ : số binh lưu lại nhiều thì sự chuyển vận [để tiếp tế] rất khó : lưu ít thì thế cô nguy, khó giữ. Hơn nữa, quân lính đóng lại, chỉ ở trong đồn bảo, mà bên ngoài mặc chúng kiêu rông ((3) Kiêu rông : kiêu ngạo lăng loàn.3), thì có ích chi ? Tất đến phải bỏ, rút về, thì khó nhọc, tổn phí không sao kể hết, sẽ không khác gì việc làm lần trước ! Kể ra, mới bỏ, lại vội lấy, đã lấy, lại bỏ đi, thì không bằng đợi lúc nên lấy hãy lấy, là hơn. Nay lại xin lấy binh thế hiện tại của ta mà nói : binh các đạo đi đánh dẹp đã trải 2 – 3 năm nay, xông pha, dầu dãi, khổ sở đã nhiều, cực nhọc đã lâu, kẻ ốm chết, kẻ bỏ trốn kể có hàng nghìn. Gián hoặc trong 1 vệ, 1 cơ, số lính chỉ còn một nửa, thậm chí lại có vệ, có cơ không còn được một nửa ! Mà những người còn sống thì mình không có manh áo lành, sắc mặt trông như đau ốm. Sức quân sĩ đã mệt nhọc như thế, há nỡ đem hạng người đáng yêu mà để làm cái việc không đáng yêu ru ? Huống nữa, hành binh sang đấy, không thể không dùng thuyền được. Hiện nay các thuyền vì luôn mấy năm dùng đi đường thuỷ, phần nhiều bị mục nát, thấm gỉ mà không có gỗ ván, dầu mỡ, để tu bổ ; nay nếu dùng để chở binh đi xa, chưa chắc mười phần đã ổn. Phàm những điều đó đều là tình hình thực tại. Lại còn như các địa phương Nam Ninh, Nam Thái, liền tiếp với thượng du, bọn liều chết liên kết nhau để giữ. Tên Yêm, tuy có thể dùng được, nhưng ta đối với hắn, ơn tín chưa sâu, chưa tiện cho đi chiêu tập. Sự cắt đất cho hắn làm phiên thuộc, tưởng hãy để thong thả sẽ làm, mới có thành hiệu. Thần trộm nghĩ : cách dùng binh, không ngoài 2 việc đánh giữ. Quân địch nếu chưa nên đánh, thì ta hãy cứ giữ, mình ở gần đợi kẻ xa đến, mình nhàn rỗi đợi kẻ mệt nhọc, khi có thể thắng thì đánh, như vậy, giữ không phải là chỉ giữ mà giữ tức là cách để đánh đó. Nếu khiến cho quân dân ta nghỉ ngơi, cùng vui dưỡng sức, nội trị đã vững, lại nghiêm cấm việc mua trộm muối, và lương thực, đợi một vài năm, bọn Lạp Man không chịu nổi sự lấn bức hà ngược của giặc Xiêm, tất sẽ giết hại lẫn nhau. Lúc ấy có thể nhân kẽ hở, nắm cơ hội mà hành động, thì không phải đánh mà thu được toàn thắng. “Vậy xin hãy giữ từ tỉnh lỵ Hà Tiên liền cả một dải sông Vĩnh Tế và những đồn bảo hiện có ở các địa phận Đa Phước, Cần Thăng, Tân Châu, An Lạc, Hùng Ngự, Thông Bình, liệu để những binh mới phái đến đóng giữ những nơi ấy. Tựu trung chỉ có chỗ cương giới miền biển của tỉnh Hà Tiên liền kề với giặc, và sông Vĩnh Tế là đường sau của Hà Tiên, thông vào tận ruột tỉnh An Giang, việc phòng bị rất là quan trọng. Nay bọn Xiêm, Man trốn tránh tản mát không có quân giặc tụ ngầm ở gần biên giới. Vả, sắp đến mùa mưa lụt, việc phòng giữ hơi được rỗi rãi, xin tuân theo lời minh dụ : liệu cho những binh lính lần lượt đã đi thú và các hạng biền binh trong Kinh, ngoài tỉnh đã đi đánh dẹp, trở về quân ngũ ở Kinh, ở tỉnh để cho sức binh được rỗi. Tôi lại còn có điều xin nữa : Giặc Xiêm sang chuyến vừa đây, muốn để rửa cái xấu hổ lần trước và khoe khoang với bọn Man Lạp, thế mà lại bị thua đau như vậy, càng nhục hơn nữa. Hoặc giả chúng chưa cam tâm, còn muốn cầu may để hòng báo phục, lại đến nộp mạng lần nữa, cũng chưa biết chừng. Ta nên chuẩn bị để nắm trước lấy cơ nghi mà chiến thắng địch. Vậy xin đến thời kỳ phòng bị mùa đông này, những tỉnh Gia Định, Vĩnh Long, Quảng Nam, Bình Định mỗi tỉnh phái 1.000 binh, Định Tường, Biên Hoà, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hoà, Bình Thuận mỗi tỉnh phái 500 binh, đến tháng 10, tháng 11 sang tỉnh An Giang đóng nghỉ. Còn binh ở Kinh, xin phái 5 vệ, đến tháng 12 vào đóng giữ Gia Định, Vĩnh Long mỗi tỉnh 2 vệ, Định Tường 1 vệ. Những thuyền bọc đồng, thuyền hải vận cũng xin cho chỉnh bị sẵn để đợi sai phái. Nếu giặc sợ không dám động đến ta, thì ta vì đã có phòng bị, không phải lo rồi, cứ chăm cho quân sĩ diễn tập để ai nấy đều thông thạo mưu lược về việc binh, tưởng cũng chẳng sao. Đến năm sau, sẽ liệu cho về. Nếu giặc ngu, không sợ chết, còn dám đến quấy nhiễu thì ra tay đối phó dễ dàng, không phải lo vì chậm chạp, lỡ việc. Lại từ Hậu Giang đến Tân Châu và An Lạc ở Tiền Giang tất phải từ Thuận Cảng đi lên, trải 3 – 4 ngày đi quanh co, vừa chậm vừa khó, đi lại thật thấy bất tiện. Vậy : một đoạn từ An Giang đi ngang qua Tân Châu và An Lạc, xin cho quan tỉnh thuê vát((1) Vát : giống như điều động.1) quân, dân đào thành đường sông để dễ cho sự khống chế tiếp ứng. Đó cũng là một việc cốt yếu nên làm”. Vua dụ Lê Văn Đức rằng : “Quan quân qua nhiều lần đánh giết, giặc đã tan chạy. Bọn giặc ở Sách Sô cũng sợ oai trốn xa trước, đến đâu cũng thấy không còn gì. Chắc chúng đã mất vía bỏ trốn, không dám dòm nom gì nữa. Duy toàn hạt Trấn Tây chưa thu phục được hết, còn chưa vừa lòng, nhưng lựa thế, xét cơ : nếu đánh được mà không thể giữ được, sao bằng hãy tạm nghỉ binh, dưỡng sức, gây oai để sẽ mưu đồ về sau, còn hơn. Nay nhân lúc oai tiếng lừng lẫy, hát khải hoàn, rút quân về, cũng là hợp lý. Chỉ có điều là ở địa diện An Giang, Hà Tiên và những đường hiểm yếu ở Tiền Giang, Hậu Giang đều cứ nhân các đồn luỹ cũ, lưu binh đóng giữ, còn thì cho về. Và, những chỗ địa đầu giáp tiếp ở Tây Ninh, Quang Hoá còn chưa bàn tới, cũng nên đồng thời cắt đặt kỹ lưỡng, lựa để số binh ở giữ, ngoài ra cũng rút về cả. Ngươi, bấy lâu mỏi mệt ở ngoài, nay đã 3 năm, tấm tình tôi con há không nhớ mong, trìu mến ? Nay, việc biên giới đã hơi thư, cho hãy về tỉnh nghỉ ngơi, mươi hôm, rồi theo đường trạm, về Kinh ngay để chiêm cận. Còn Lê Văn Phú, vẫn do chức Thống chế, quyền lĩnh Tổng đốc Định – Biên ; Đặng Văn Thiêm cũng về Bình – Phú để cung chức. Về số các hạng biền binh nên cho lưu lại hoặc thả về, đợi làm tập tấu đệ lên, sẽ lại liệu quyết định. Về việc xin đến kỳ phòng thủ mùa đông, trước phái binh đến thì đợi đến gần kỳ ấy, đã do bộ tâu rồi làm. Duy các thuyền ở Nam Kỳ, cần dùng rất gấp, giao cho sở tại xét xem những chiếc thuyền nào nên tu bổ thì chi các khoản để cho sửa chữa, cần phải đều được hoàn hảo để phòng dùng đến. Một đoạn từ thủ sở Châu Giang ngang qua Tân Châu và An Lạc, giao Nguyễn Công Nhàn và Nguyễn Công Trứ trù tính công làm, rồi tâu lên”. Chưa bao lâu, tỉnh An Giang trù tính : nhân công dùng làm việc này, phải tới 72.522 công, phải thuê 10.000 dân phu ở 3 tỉnh An Giang, Vĩnh Long, Định Tường và vát 2.000 biền binh các hạng đi làm, ước tới 2 tháng mới xong. Nhưng hiện nay trời nắng dữ, nhân dân phần nhiều cảm nhiễm sinh bệnh, xin hãy cho tạm hoãn”. Vua y theo. Bọn Tổng thống Lê Văn Đức tấu khúc khải hoàn rút quân về. Những lính thú mới vẫn để lại đóng giữ 2 tỉnh An Giang, Hà Tiên ; còn những lính thú cũ và quân theo việc đánh dẹp lâu ngày đều cho về nguyên ngũ.
edited Sep 22 '19 lúc 11:13 am

Tập 06

Đinh Mùi, Thiệu Trị năm thứ 7 [1847], mùa xuân, tháng 3

Chiếu truyền các tướng ở Trấn Tây : xong việc binh rồi, kéo quân chuyển về tỉnh An Giang để nghỉ ngơi.
Vũ Văn Giải và Nguyễn Tri Phương tâu nói : “Quân ta từ sau khi bình định được Trấn Tây, nhân cái đất ấy đóng đại binh, để trấn áp và vỗ yên [nhân dân], nhưng đều tuỳ thế đặt ra đồn trại. Những nhà công ở chỗ núi đất có nhiều, còn cái thành xây bằng gạch mà hạ được cũng tu bổ thêm vào để chứa quân nhu. Chỗ Tiền Giang, Hậu Giang, từ Tầm Vu, sách Cần Đa trở xuống, cũng liên lạc đặt đồn, lưu quân để phòng giữ. Nay chúng đã xin làm tôi, dâng lễ cống, thì quân ta kéo về. Còn ở bên ngoài đồn trấn, nguyên trước đặt ra 3 đồn, triệt huỷ đi một sở pháo đài xây bằng gạch đá, xin giao cho phiên thần Sá Ong Giun đi lại đóng ở đấy ; đến như các đồn trại : Tiền Giang từ Sách Cần cho đến Việt Giang, Hậu Giang từ Tầm Vu cho đến Long Sơn, rồi lần lượt cũng triệt huỷ đi. Duy có tỉnh An Giang tiếp liền với cảnh thổ Chân Lạp, chỗ Hậu Giang xin lấy đồn Bình Di làm địa đầu, chỗ Tiền Giang lấy bãi sông thôn Tiến An làm địa đầu, cùng với đồn trại nguyên đặt ở duyên biên các tỉnh An Giang, Định Tường, Định Biên, nên sửa sang cho thêm rộng ra để lưu quân phòng thủ. Còn các vệ cơ của quân Kinh và các tỉnh đi đóng thú thì cho về để nghỉ ngơi”.

Vua ưng cho lời xin, sai hội đồng với tỉnh An Giang thương lượng để thi hành. Sau đó quan tỉnh An Giang tâu nói : “Trong hạt có 8 đồn như Tân Châu, An Lạc, Vĩnh Thành, Cầu Thăng, Trung Khoan, Tái Xuất, Hưng Nhượng và Ba Xuyên, hoặc bức gần với đất giặc, hoặc xa cách tỉnh thành, đều là chỗ quan yếu, những biền binh trước phái đến, nghĩ nên cứ ở nguyên đấy để phòng thủ. Còn 3 đồn Bình Thiên, Long Sơn và Thảo Tham, không quan yếu gì lắm, cùng với các đồn ở một giải sông Vĩnh Tế hiện đã có đạo quân trấn áp, biền binh trước phái đến xin liệu cho rút bớt đi. Lại, những biền binh trước phái đi tuần tiễu ở đường sông và trú phòng ở đồn Đa Phước, xin cho triệt về”. Vua ưng cho.


Tập 07

Tân Hợi, Tự Đức năm thứ 4 [1851],

Nam Kỳ Kinh lược sứ là Nguyễn Tri Phương bàn dâng điều lệ xét hỏi ở nơi cửa tuần, đồn canh :

  • Thuyền dân người Kinh, người nước Thanh, người Man, người Thổ, muốn đi buôn ở Cao Miên thì phải kê rõ họ tên quán chỉ người chủ thuyền, số người ở trong thuyền là bao nhiêu, đi bao nhiêu ngày thì về, cần có lý trưởng, bang trưởng bảo đảm kết nhận, quan tỉnh xét thực phê vào làm bằng. Thuyền ấy đi qua những đồn, ải ở nơi địa đầu kiểm xét đúng thực thì để cho đi. Nếu mang theo vật hạng đã cấm, hoặc người dị dạng, thì bắt giải tỉnh để xét. Như có quá hạn trong 1 tháng trở lại thì tạm ghi lỗi, quá đến ngoài hạn 1 tháng, thì cứ chủ thuyền trừng phạt nghiêm ngặt, ngoài 3 tháng không thấy trở về, thì đem cả bọn người bảo đảm kết nhận, xét rõ trị tội nặng.

  • Thuyền người nước Thanh, người Thổ ở nước Cao Miên, nguyên lĩnh giấy phê làm bằng ở quan phiên, chỉ mới là đến tỉnh An Giang để buôn bán. Khi thuyền ấy đi qua các đồn bảo xét thực cho đi ; khi xong việc trở về, đem giấy phê làm bằng trước xin chữ quan tỉnh ấy phê để tiện đồn bảo kiểm xét. Nếu thuyền nào ở tỉnh ấy chưa tiêu thụ xong hàng hoá muốn đem đi bán ở các hạt, thì tỉnh An Giang chiểu thu giấy phê làm bằng trước, đổi cho tờ trát, hết hạn đem về nộp. Nếu quá hạn thì tra xét xem thuyền ấy đã đến hạt nào, tư cho hạt ấy đuổi về, thu lại trát của tỉnh, phát giao giấy bằng cũ, cũng cho chữ vào sau giấy ấy, rồi cho về. Thuyền ấy đi qua những cửa ải và đồn bảo nào lại khám xét lại, thấy đích xác có tỉnh, phủ, huyện phê làm bằng thì lập tức cho về. Nếu chở trộm vật cấm thì bắt giải tỉnh xét. Duy người nước Thanh nguyên ở cõi đất Cao Miên, như có tình nguyện vào ở hạt nào để sinh nghiệp, thì cho phép do bang trưởng sở tại kết nhận chua vào sổ, cho yên ở để mưu sinh sống thì không ở lệ cấm, để rộng đường yêu thương người xa lạ.

  • Các sở đồn bảo khám xét, trong đó như 4 bảo Tàm Châu, Khánh An, Tiến An, Bình Di ở tỉnh An Giang, 2 bảo Thông Bình, Hùng Ngữ ở tỉnh Định Tường, xin vẫn để ở các bảo ấy làm nơi khám xét. Lại xét hỏi ra sông Tiền Giang ở tỉnh An Giang còn có sông nhánh Tra Trư cũng thông đến sông lớn, cứ đến kỳ nước lũ về mùa thu, thuyền buôn của dân Kinh, dân Thổ cùng đi qua lại buôn bán, đã phụng Chỉ giảm bớt đi. Nay xin chọn nơi tiện đặt 1 đồn canh ở sông ấy để khám xét, đợi sau này có nên đặt 1 cửa tuần để đánh thuế, sẽ do tỉnh Gia Định làm cho ổn thoả. Vua theo lời tâu.

Tổng đốc An – Hà là Cao Hữu Bằng tâu nói : Quốc vương Cao Miên là Xá Ong Giun uỷ cho thổ mục đến tỉnh đưa giấy xin dời lùi 2 bảo Bình Di, Khánh Yên. Lại nói : Phái nhân ngồi thu thuế thuyền ở đấy, thổ dân các man đi lại không tiện, vả lại lấn quan xứ Kha Bát thuộc cõi nước ấy. Xin châm chước miễn thuế cho, để được thông thương thì cùng yên lâu dài, không dám lại nói đến việc Thất Sơn, phủ Ba Xuyên nữa. Tức thì đã hiểu bảo các lẽ ngay ở trước mặt : (Khi trước đặt ra 2 đồn này, là để xét kẻ gian và chia địa giới. Chỗ đó đều thuộc địa phận dân Kinh, nguyên không lấn qua cõi đất nước ấy. Vả lại ngồi thu thuế cửa tuần là thu những thuyền buôn của 6 tỉnh và người ở nước Thanh, người Thổ từ thành Nam Vang lại mà thôi ; còn xứ Kha Bát ở bảo Bình Di, vẫn không thu thuế. Nên đem ý ấy nói cho Quốc vương biết). Lại phái Ngô Thế Chu đưa thư đến nói cho biết. Duy tình người Miên bất thường, đã sức cho các đồn bảo ven biên giới phòng bị rồi.

Vua nói : Dời lùi đồn bảo, cố nhiên là vô lý, há nên chiều lòng mà theo. Nhưng nên nghiêm sức cho viên biền ngồi thu, chớ cho thổ dân là ngu dại dễ lừa, mà tạ sự bức bách quấy nhiễu, sinh ra mối tệ. Ngươi là tỉnh thần lại nghĩ làm tờ tư do viên Kinh lược duyệt lại, trách hỏi Man vương lấy những đại ý về nghĩa phiên thần và ơn vun giồng, xem Man vương kia đáp lại thế nào, tuỳ cơ châm chước mà làm.

Quý Sửu, Tự Đức năm thứ 6 [1853]

Chuẩn cho Nam Kỳ thi hành phép mở đồn điền và lập ấp. Trước đây, Kinh lược sứ là Nguyễn Tri Phương tâu về công việc 6 tỉnh, xin tụ tập những dân nghèo túng, mở rộng đồn điền, để giúp việc sinh sống. Triều đình bàn, cho là việc chưa tiện làm, rồi bỏ đó (việc từ 3 năm trước). Sau lại cùng với phó sứ là Phan Thanh Giản bàn : cho là An Giang, Hà Tiên, địa giới liền với đất Man, là nơi địa đầu yếu ; xin mộ dân đồn điền ở mặt dải sông Vĩnh Tế thuộc 2 tỉnh ấy, mỗi đội 50 tên, do 2 tỉnh ấy dồn làm các đội An điền, Tiên điền, ngày thường thì khai khẩn làm ruộng ; khi có việc thì chia phái đi phòng giữ. Lại ở ven 2 bên bờ sông, cũng xin chiêu dân lập ấp, miễn cho phần chọn ra lính. Lúc thường thì tuỳ tiện kinh doanh, sinh nghiệp ; có sự thì họp hết lại, chia đi phòng thủ để làm kế khai khẩn ruộng đất, vững mạnh cõi ven. Đã chuẩn cho thi hành. Mùa thu năm ngoái, biện lý bộ Lễ là Tôn Thất Phan tâu bày về 1 hạt phủ Ba Xuyên, địa lợi màu tốt ; năm trước, về muối, gạo, nước Cao Miên, đều lấy ở phủ ấy cả. Lại hạt ấy là chỗ xung yếu của 2 tỉnh An, Hà, xin ở 2 phủ Tĩnh Biên, Ba Xuyên, nơi nào mà nhân dân người Thanh, người Kinh đến ở đấy, thì cho phép chúng khai hoang, tha thuế. Vua đều giao các việc này cho đình thần bàn. Đình thần tham chước lời bàn trước của viên kinh lược, xin do Nam Kỳ và các trực tỉnh (từ Bình Thuận trở ra Bắc) thông sức các người trong hạt, cho phép người nào tình nguyện lĩnh bằng để mộ dân, giao cho 2 tỉnh An, Hà sức đến các xứ : bờ sông Vĩnh Tế và các phủ Ba Xuyên, Tĩnh Biên, đều chiểu chỗ đất nào bỏ hoang mà cư trú cày cấy. Dân mộ làm đồn điền thì dồn làm binh đồn điền, chỉ lấy 50 người dân Kinh làm 1 đội, 500 người làm 1 cơ. Dân mộ lập ấp, thì cần đủ 10 người trở lên, cho phép được tuỳ chỗ khai khẩn, cư trú nối liền nhau, lập thành sở của thôn. Gián hoặc có người nước Thanh nào đến ứng mộ cũng cho sung vào binh đồn điền. Người nào mộ được đủ 1 đội, thì bổ thụ làm chánh đội trưởng suất đội (chánh thất phẩm) ; đủ 1 cơ, thì bổ thụ cai đội (chánh lục phẩm) thí sai phó quản cơ. Sau khi đã thành căn cước rồi, thì 1 đội làm 1 ấp, 1 cơ làm 1 tổng. Quản cơ, suất đội đều lĩnh chức tổng trưởng, ấp trưởng. (Những người ứng mộ, hiện cấy được 2 mẫu trở lên, thì chủ mộ mới được chuẩn cho thưởng thụ ; nếu cấy không được 2 mẫu, lại gia hạn cho 1 năm nữa, nếu hết hạn, mà thiếu đến 3 thành trở lên, thì do tỉnh trừng trị). Người đứng lập ấp mà mộ đủ 30 người, thì tha thuế thân và sai dịch suốt đời ; được 50 người, thưởng thụ chánh cửu phẩm bách hộ ; được 100 người, thưởng thụ chánh bát phẩm bách hộ ; vẫn lĩnh làm tổng lý (3 năm thì làm sổ, chiểu lệ đồn điền thi hành). Còn ruộng đất hiện đã khai khẩn được và thuế thân của nhân đinh đều khoan hạn (10 năm) mới bắt đầu thu, để tỏ sự khích khuyến.

Vua sai Nguyễn Tri Phương đốc suất cùng với 2 tỉnh An, Hà thi hành, cần có thực hiệu. Đến đây, Tri Phương lại tâu các phủ Ba Xuyên, Tĩnh Biên lại ở khúc giữa An – Hà, thổ dân mới lệ thuộc vào các hạt ấy. Nay mở đồn điền, lập ấp, không thông hành ở 6 tỉnh, mà độc thi hành ở 2 phủ ấy, thì bọn dân dễ bị nghi hoặc, khó hiểu lẽ kia, sợ hoặc do đó mà sinh sự. Xin thông sức cho các dân ứng mộ ở tỉnh, hoặc đến Tĩnh Biên, Ba Xuyên, hoặc chiểu theo chỗ đất hoang trong hạt mình mà khai khẩn lập ấp ; nhưng phải sáp nhập vào các tổng hiện lập thành, được theo ý nguyện (các điều khoản đều theo lệ trước. Duy có dinh, điền, 5 năm mới bắt đầu thu thuế). Lại những tù tội chính quán, ngụ quán ở 6 tỉnh (từ tội xử sung quân trở xuống), không kể quan hay dân bị phạm tội, nếu có người nào ra sức tình nguyện triệu mộ dân, lập làm 1 đội, hoặc 1 thôn, đều đủ 50 người, thì cho phép làng, họ bảo nhận cam kết, sẽ được tạm tha, cho đi chiêu mộ đủ số thì tha tội. Rồi giao cho chia ghép vào 1 dải sông Vĩnh Tế về An Giang và Giang Thành về Hà Tiên để cày trồng và cư trú, đợi có thành hiệu, sẽ liệu để làm. Vua chuẩn y cho theo như lời bàn thi hành một loạt.

Kỷ Mùi, Tự Đức năm thứ 12 [1859],

Người Chàm, người Chà Và (bọn ốc Nha tên là ốc, Bồn Nha tên là Hiên và binh dân hơn 1.000 người) từ Cao Miên trở về quy thuận. Tổng đốc An – Hà là Nguyễn Công Gian đem việc tâu lên. Vua hỏi viện Cơ mật, Trương Đăng Quế, Lưu Lượng tâu nói : Bọn ấy đem vợ con về với ta, vì chúng bị sự bạo ngược của Man vương đấy thôi. Đã nhận cho chúng về mà nay lại cự tuyệt sợ lại sinh việc và phụ lòng trông mong của dân. Bọn dân kia ngu xuẩn thật thà, cũng có thể chắc là không ngại gì. Nhân lúc chúng đến mà ta vỗ về, cho chúng ở tản ra các phủ Thất Sơn, Ba Xuyên, Lạc Hóa là nơi hẻo lánh không khoáng. Nếu nước Miên đến hỏi đòi giao trả lại, thì cứ tình lý hiện tại mà ứng đáp. (Đại ý nói : Vương giả đất có giới hạn, dân không chừng hạn, dân Man tản mát ở đất ta, ta khó biết được, cũng như dân ta ở đất Man, Man trưởng làm sao mà biết được. Từ trước đến nay, ta không hỏi Man trưởng, sao bây giờ Man trưởng lại hỏi ta, có nên không ? Hơn nữa, lần ấy ta đã đuổi chúng đi, thì đã đi cả, ai đi theo họ mà chiểu quản ư ? Đến như ốc nha, Bồn nha, cùng là hạng đầu mục nhỏ, hoặc ở lẫn với dân trốn đi, cũng không xét vào đâu cho ra được). Lời thuận lẽ phải. Man trưởng há dám bắt ta giao trả dân cho nó. Hơn nữa, Man trưởng là tên Giun còn thò ra thụt vào như chuột lừng chừng 2 mặt không phải là kẻ một lòng kính thuận, ta há có lẽ dễ dàng bắt dân giao cho nó ư ?

Vua nói rằng : Thêm ra một việc, không bằng bớt đi một việc. Họ đòi bắt giao là không phải, mà mình lưu lại cũng không ích gì. Rồi thì Man trưởng cho người đến hỏi. Nguyễn Công Nhàn cho là nó có ý tỏ ra nói bướng, bác đi. Man trưởng đưa thư đến tỉnh Gia Định (trong thư có mấy câu : do quan hùng dũng ẩn giấu giúp đỡ người Chàm). Vua sai Công Nhàn xét, thì việc ấy bởi Thư lại Lê Văn Chiểu dắt dây cho bọn người Chàm. (Bọn đầu mục người Chàm là Tôn Ly 9 tên làm phản nước Man, chạy đến An Giang. Man trưởng sợ chúng sinh sự, bắt vợ con chúng và nhân dân (tức là người Chàm, người Chà Và) giải đến thành Ô Đông. Lúc bấy giờ Văn Chiểu được phái đi thuyền do thám tình hình ngoài biển, nhận của đút của đầu mục Chàm, cho thuyền đi về Ô Đông, mưu cùng bè lũ là bọn Tôn Ca, Tôn ích 5 tên, đánh tháo lấy vợ con, việc hở ra bị Man trưởng đánh bắt. Tôn Ca bị chết, bọn Tôn Lý bèn đem vợ con và nhân dân đánh lại người bắt rồi trốn đi. Văn Chiểu lại nói phao lên là có lính tỉnh An Giang đến cứu viện, nên các đồn trại Man ấy không dám ngăn trở, bọn Tôn Lý bèn được trốn thoát. Công việc ấy là bởi Văn Chiểu tham của làm bậy gây chuyện). Công Nhàn theo Chỉ vua tư hội cho tù trưởng người Man áp giải Văn Chiểu đến chỗ đầu địa giới để chém. Bốn đầu mục Chàm đi theo đều chạy trốn. (Còn người Chàm, người Chà Và cho đều chia ở các xứ Man dưới yên nghiệp làm ăn). Vua bèn cho tỉnh ấy, tư bảo Man trưởng ấy tự đi bắt lấy mà trị tội.

Tân Dậu, Tự Đức năm thứ 14 [1861],

Con của Ong Giun, Quốc vương Cao Miên, 2 người (Ong Bướm, Ong Lằn) tranh nhau lên làm vua, trong nước rối loạn. Những lái buôn người nước Thanh lánh về bảo Bình Di, xin ở đấy buôn bán chịu thuế. Vua nói : Bọn ấy vì lánh nạn mà tới ở, miễn thuế cho.

### Tập 06 Đinh Mùi, Thiệu Trị năm thứ 7 [1847], mùa xuân, tháng 3 Chiếu truyền các tướng ở Trấn Tây : xong việc binh rồi, kéo quân chuyển về tỉnh An Giang để nghỉ ngơi. Vũ Văn Giải và Nguyễn Tri Phương tâu nói : “Quân ta từ sau khi bình định được Trấn Tây, nhân cái đất ấy đóng đại binh, để trấn áp và vỗ yên [nhân dân], nhưng đều tuỳ thế đặt ra đồn trại. Những nhà công ở chỗ núi đất có nhiều, còn cái thành xây bằng gạch mà hạ được cũng tu bổ thêm vào để chứa quân nhu. Chỗ Tiền Giang, Hậu Giang, từ Tầm Vu, sách Cần Đa trở xuống, cũng liên lạc đặt đồn, lưu quân để phòng giữ. Nay chúng đã xin làm tôi, dâng lễ cống, thì quân ta kéo về. Còn ở bên ngoài đồn trấn, nguyên trước đặt ra 3 đồn, triệt huỷ đi một sở pháo đài xây bằng gạch đá, xin giao cho phiên thần Sá Ong Giun đi lại đóng ở đấy ; đến như các đồn trại : Tiền Giang từ Sách Cần cho đến Việt Giang, Hậu Giang từ Tầm Vu cho đến Long Sơn, rồi lần lượt cũng triệt huỷ đi. Duy có tỉnh An Giang tiếp liền với cảnh thổ Chân Lạp, chỗ Hậu Giang xin lấy đồn Bình Di làm địa đầu, chỗ Tiền Giang lấy bãi sông thôn Tiến An làm địa đầu, cùng với đồn trại nguyên đặt ở duyên biên các tỉnh An Giang, Định Tường, Định Biên, nên sửa sang cho thêm rộng ra để lưu quân phòng thủ. Còn các vệ cơ của quân Kinh và các tỉnh đi đóng thú thì cho về để nghỉ ngơi”. Vua ưng cho lời xin, sai hội đồng với tỉnh An Giang thương lượng để thi hành. Sau đó quan tỉnh An Giang tâu nói : “Trong hạt có 8 đồn như Tân Châu, An Lạc, Vĩnh Thành, Cầu Thăng, Trung Khoan, Tái Xuất, Hưng Nhượng và Ba Xuyên, hoặc bức gần với đất giặc, hoặc xa cách tỉnh thành, đều là chỗ quan yếu, những biền binh trước phái đến, nghĩ nên cứ ở nguyên đấy để phòng thủ. Còn 3 đồn Bình Thiên, Long Sơn và Thảo Tham, không quan yếu gì lắm, cùng với các đồn ở một giải sông Vĩnh Tế hiện đã có đạo quân trấn áp, biền binh trước phái đến xin liệu cho rút bớt đi. Lại, những biền binh trước phái đi tuần tiễu ở đường sông và trú phòng ở đồn Đa Phước, xin cho triệt về”. Vua ưng cho. --- ### Tập 07 Tân Hợi, Tự Đức năm thứ 4 [1851], Nam Kỳ Kinh lược sứ là Nguyễn Tri Phương bàn dâng điều lệ xét hỏi ở nơi cửa tuần, đồn canh : - Thuyền dân người Kinh, người nước Thanh, người Man, người Thổ, muốn đi buôn ở Cao Miên thì phải kê rõ họ tên quán chỉ người chủ thuyền, số người ở trong thuyền là bao nhiêu, đi bao nhiêu ngày thì về, cần có lý trưởng, bang trưởng bảo đảm kết nhận, quan tỉnh xét thực phê vào làm bằng. Thuyền ấy đi qua những đồn, ải ở nơi địa đầu kiểm xét đúng thực thì để cho đi. Nếu mang theo vật hạng đã cấm, hoặc người dị dạng, thì bắt giải tỉnh để xét. Như có quá hạn trong 1 tháng trở lại thì tạm ghi lỗi, quá đến ngoài hạn 1 tháng, thì cứ chủ thuyền trừng phạt nghiêm ngặt, ngoài 3 tháng không thấy trở về, thì đem cả bọn người bảo đảm kết nhận, xét rõ trị tội nặng. - Thuyền người nước Thanh, người Thổ ở nước Cao Miên, nguyên lĩnh giấy phê làm bằng ở quan phiên, chỉ mới là đến tỉnh An Giang để buôn bán. Khi thuyền ấy đi qua các đồn bảo xét thực cho đi ; khi xong việc trở về, đem giấy phê làm bằng trước xin chữ quan tỉnh ấy phê để tiện đồn bảo kiểm xét. Nếu thuyền nào ở tỉnh ấy chưa tiêu thụ xong hàng hoá muốn đem đi bán ở các hạt, thì tỉnh An Giang chiểu thu giấy phê làm bằng trước, đổi cho tờ trát, hết hạn đem về nộp. Nếu quá hạn thì tra xét xem thuyền ấy đã đến hạt nào, tư cho hạt ấy đuổi về, thu lại trát của tỉnh, phát giao giấy bằng cũ, cũng cho chữ vào sau giấy ấy, rồi cho về. Thuyền ấy đi qua những cửa ải và đồn bảo nào lại khám xét lại, thấy đích xác có tỉnh, phủ, huyện phê làm bằng thì lập tức cho về. Nếu chở trộm vật cấm thì bắt giải tỉnh xét. Duy người nước Thanh nguyên ở cõi đất Cao Miên, như có tình nguyện vào ở hạt nào để sinh nghiệp, thì cho phép do bang trưởng sở tại kết nhận chua vào sổ, cho yên ở để mưu sinh sống thì không ở lệ cấm, để rộng đường yêu thương người xa lạ. - Các sở đồn bảo khám xét, trong đó như 4 bảo Tàm Châu, Khánh An, Tiến An, Bình Di ở tỉnh An Giang, 2 bảo Thông Bình, Hùng Ngữ ở tỉnh Định Tường, xin vẫn để ở các bảo ấy làm nơi khám xét. Lại xét hỏi ra sông Tiền Giang ở tỉnh An Giang còn có sông nhánh Tra Trư cũng thông đến sông lớn, cứ đến kỳ nước lũ về mùa thu, thuyền buôn của dân Kinh, dân Thổ cùng đi qua lại buôn bán, đã phụng Chỉ giảm bớt đi. Nay xin chọn nơi tiện đặt 1 đồn canh ở sông ấy để khám xét, đợi sau này có nên đặt 1 cửa tuần để đánh thuế, sẽ do tỉnh Gia Định làm cho ổn thoả. Vua theo lời tâu. Tổng đốc An – Hà là Cao Hữu Bằng tâu nói : Quốc vương Cao Miên là Xá Ong Giun uỷ cho thổ mục đến tỉnh đưa giấy xin dời lùi 2 bảo Bình Di, Khánh Yên. Lại nói : Phái nhân ngồi thu thuế thuyền ở đấy, thổ dân các man đi lại không tiện, vả lại lấn quan xứ Kha Bát thuộc cõi nước ấy. Xin châm chước miễn thuế cho, để được thông thương thì cùng yên lâu dài, không dám lại nói đến việc Thất Sơn, phủ Ba Xuyên nữa. Tức thì đã hiểu bảo các lẽ ngay ở trước mặt : (Khi trước đặt ra 2 đồn này, là để xét kẻ gian và chia địa giới. Chỗ đó đều thuộc địa phận dân Kinh, nguyên không lấn qua cõi đất nước ấy. Vả lại ngồi thu thuế cửa tuần là thu những thuyền buôn của 6 tỉnh và người ở nước Thanh, người Thổ từ thành Nam Vang lại mà thôi ; còn xứ Kha Bát ở bảo Bình Di, vẫn không thu thuế. Nên đem ý ấy nói cho Quốc vương biết). Lại phái Ngô Thế Chu đưa thư đến nói cho biết. Duy tình người Miên bất thường, đã sức cho các đồn bảo ven biên giới phòng bị rồi. Vua nói : Dời lùi đồn bảo, cố nhiên là vô lý, há nên chiều lòng mà theo. Nhưng nên nghiêm sức cho viên biền ngồi thu, chớ cho thổ dân là ngu dại dễ lừa, mà tạ sự bức bách quấy nhiễu, sinh ra mối tệ. Ngươi là tỉnh thần lại nghĩ làm tờ tư do viên Kinh lược duyệt lại, trách hỏi Man vương lấy những đại ý về nghĩa phiên thần và ơn vun giồng, xem Man vương kia đáp lại thế nào, tuỳ cơ châm chước mà làm. Quý Sửu, Tự Đức năm thứ 6 [1853] Chuẩn cho Nam Kỳ thi hành phép mở đồn điền và lập ấp. Trước đây, Kinh lược sứ là Nguyễn Tri Phương tâu về công việc 6 tỉnh, xin tụ tập những dân nghèo túng, mở rộng đồn điền, để giúp việc sinh sống. Triều đình bàn, cho là việc chưa tiện làm, rồi bỏ đó (việc từ 3 năm trước). Sau lại cùng với phó sứ là Phan Thanh Giản bàn : cho là An Giang, Hà Tiên, địa giới liền với đất Man, là nơi địa đầu yếu ; xin mộ dân đồn điền ở mặt dải sông Vĩnh Tế thuộc 2 tỉnh ấy, mỗi đội 50 tên, do 2 tỉnh ấy dồn làm các đội An điền, Tiên điền, ngày thường thì khai khẩn làm ruộng ; khi có việc thì chia phái đi phòng giữ. Lại ở ven 2 bên bờ sông, cũng xin chiêu dân lập ấp, miễn cho phần chọn ra lính. Lúc thường thì tuỳ tiện kinh doanh, sinh nghiệp ; có sự thì họp hết lại, chia đi phòng thủ để làm kế khai khẩn ruộng đất, vững mạnh cõi ven. Đã chuẩn cho thi hành. Mùa thu năm ngoái, biện lý bộ Lễ là Tôn Thất Phan tâu bày về 1 hạt phủ Ba Xuyên, địa lợi màu tốt ; năm trước, về muối, gạo, nước Cao Miên, đều lấy ở phủ ấy cả. Lại hạt ấy là chỗ xung yếu của 2 tỉnh An, Hà, xin ở 2 phủ Tĩnh Biên, Ba Xuyên, nơi nào mà nhân dân người Thanh, người Kinh đến ở đấy, thì cho phép chúng khai hoang, tha thuế. Vua đều giao các việc này cho đình thần bàn. Đình thần tham chước lời bàn trước của viên kinh lược, xin do Nam Kỳ và các trực tỉnh (từ Bình Thuận trở ra Bắc) thông sức các người trong hạt, cho phép người nào tình nguyện lĩnh bằng để mộ dân, giao cho 2 tỉnh An, Hà sức đến các xứ : bờ sông Vĩnh Tế và các phủ Ba Xuyên, Tĩnh Biên, đều chiểu chỗ đất nào bỏ hoang mà cư trú cày cấy. Dân mộ làm đồn điền thì dồn làm binh đồn điền, chỉ lấy 50 người dân Kinh làm 1 đội, 500 người làm 1 cơ. Dân mộ lập ấp, thì cần đủ 10 người trở lên, cho phép được tuỳ chỗ khai khẩn, cư trú nối liền nhau, lập thành sở của thôn. Gián hoặc có người nước Thanh nào đến ứng mộ cũng cho sung vào binh đồn điền. Người nào mộ được đủ 1 đội, thì bổ thụ làm chánh đội trưởng suất đội (chánh thất phẩm) ; đủ 1 cơ, thì bổ thụ cai đội (chánh lục phẩm) thí sai phó quản cơ. Sau khi đã thành căn cước rồi, thì 1 đội làm 1 ấp, 1 cơ làm 1 tổng. Quản cơ, suất đội đều lĩnh chức tổng trưởng, ấp trưởng. (Những người ứng mộ, hiện cấy được 2 mẫu trở lên, thì chủ mộ mới được chuẩn cho thưởng thụ ; nếu cấy không được 2 mẫu, lại gia hạn cho 1 năm nữa, nếu hết hạn, mà thiếu đến 3 thành trở lên, thì do tỉnh trừng trị). Người đứng lập ấp mà mộ đủ 30 người, thì tha thuế thân và sai dịch suốt đời ; được 50 người, thưởng thụ chánh cửu phẩm bách hộ ; được 100 người, thưởng thụ chánh bát phẩm bách hộ ; vẫn lĩnh làm tổng lý (3 năm thì làm sổ, chiểu lệ đồn điền thi hành). Còn ruộng đất hiện đã khai khẩn được và thuế thân của nhân đinh đều khoan hạn (10 năm) mới bắt đầu thu, để tỏ sự khích khuyến. Vua sai Nguyễn Tri Phương đốc suất cùng với 2 tỉnh An, Hà thi hành, cần có thực hiệu. Đến đây, Tri Phương lại tâu các phủ Ba Xuyên, Tĩnh Biên lại ở khúc giữa An – Hà, thổ dân mới lệ thuộc vào các hạt ấy. Nay mở đồn điền, lập ấp, không thông hành ở 6 tỉnh, mà độc thi hành ở 2 phủ ấy, thì bọn dân dễ bị nghi hoặc, khó hiểu lẽ kia, sợ hoặc do đó mà sinh sự. Xin thông sức cho các dân ứng mộ ở tỉnh, hoặc đến Tĩnh Biên, Ba Xuyên, hoặc chiểu theo chỗ đất hoang trong hạt mình mà khai khẩn lập ấp ; nhưng phải sáp nhập vào các tổng hiện lập thành, được theo ý nguyện (các điều khoản đều theo lệ trước. Duy có dinh, điền, 5 năm mới bắt đầu thu thuế). Lại những tù tội chính quán, ngụ quán ở 6 tỉnh (từ tội xử sung quân trở xuống), không kể quan hay dân bị phạm tội, nếu có người nào ra sức tình nguyện triệu mộ dân, lập làm 1 đội, hoặc 1 thôn, đều đủ 50 người, thì cho phép làng, họ bảo nhận cam kết, sẽ được tạm tha, cho đi chiêu mộ đủ số thì tha tội. Rồi giao cho chia ghép vào 1 dải sông Vĩnh Tế về An Giang và Giang Thành về Hà Tiên để cày trồng và cư trú, đợi có thành hiệu, sẽ liệu để làm. Vua chuẩn y cho theo như lời bàn thi hành một loạt. Kỷ Mùi, Tự Đức năm thứ 12 [1859], Người Chàm, người Chà Và (bọn ốc Nha tên là ốc, Bồn Nha tên là Hiên và binh dân hơn 1.000 người) từ Cao Miên trở về quy thuận. Tổng đốc An – Hà là Nguyễn Công Gian đem việc tâu lên. Vua hỏi viện Cơ mật, Trương Đăng Quế, Lưu Lượng tâu nói : Bọn ấy đem vợ con về với ta, vì chúng bị sự bạo ngược của Man vương đấy thôi. Đã nhận cho chúng về mà nay lại cự tuyệt sợ lại sinh việc và phụ lòng trông mong của dân. Bọn dân kia ngu xuẩn thật thà, cũng có thể chắc là không ngại gì. Nhân lúc chúng đến mà ta vỗ về, cho chúng ở tản ra các phủ Thất Sơn, Ba Xuyên, Lạc Hóa là nơi hẻo lánh không khoáng. Nếu nước Miên đến hỏi đòi giao trả lại, thì cứ tình lý hiện tại mà ứng đáp. (Đại ý nói : Vương giả đất có giới hạn, dân không chừng hạn, dân Man tản mát ở đất ta, ta khó biết được, cũng như dân ta ở đất Man, Man trưởng làm sao mà biết được. Từ trước đến nay, ta không hỏi Man trưởng, sao bây giờ Man trưởng lại hỏi ta, có nên không ? Hơn nữa, lần ấy ta đã đuổi chúng đi, thì đã đi cả, ai đi theo họ mà chiểu quản ư ? Đến như ốc nha, Bồn nha, cùng là hạng đầu mục nhỏ, hoặc ở lẫn với dân trốn đi, cũng không xét vào đâu cho ra được). Lời thuận lẽ phải. Man trưởng há dám bắt ta giao trả dân cho nó. Hơn nữa, Man trưởng là tên Giun còn thò ra thụt vào như chuột lừng chừng 2 mặt không phải là kẻ một lòng kính thuận, ta há có lẽ dễ dàng bắt dân giao cho nó ư ? Vua nói rằng : Thêm ra một việc, không bằng bớt đi một việc. Họ đòi bắt giao là không phải, mà mình lưu lại cũng không ích gì. Rồi thì Man trưởng cho người đến hỏi. Nguyễn Công Nhàn cho là nó có ý tỏ ra nói bướng, bác đi. Man trưởng đưa thư đến tỉnh Gia Định (trong thư có mấy câu : do quan hùng dũng ẩn giấu giúp đỡ người Chàm). Vua sai Công Nhàn xét, thì việc ấy bởi Thư lại Lê Văn Chiểu dắt dây cho bọn người Chàm. (Bọn đầu mục người Chàm là Tôn Ly 9 tên làm phản nước Man, chạy đến An Giang. Man trưởng sợ chúng sinh sự, bắt vợ con chúng và nhân dân (tức là người Chàm, người Chà Và) giải đến thành Ô Đông. Lúc bấy giờ Văn Chiểu được phái đi thuyền do thám tình hình ngoài biển, nhận của đút của đầu mục Chàm, cho thuyền đi về Ô Đông, mưu cùng bè lũ là bọn Tôn Ca, Tôn ích 5 tên, đánh tháo lấy vợ con, việc hở ra bị Man trưởng đánh bắt. Tôn Ca bị chết, bọn Tôn Lý bèn đem vợ con và nhân dân đánh lại người bắt rồi trốn đi. Văn Chiểu lại nói phao lên là có lính tỉnh An Giang đến cứu viện, nên các đồn trại Man ấy không dám ngăn trở, bọn Tôn Lý bèn được trốn thoát. Công việc ấy là bởi Văn Chiểu tham của làm bậy gây chuyện). Công Nhàn theo Chỉ vua tư hội cho tù trưởng người Man áp giải Văn Chiểu đến chỗ đầu địa giới để chém. Bốn đầu mục Chàm đi theo đều chạy trốn. (Còn người Chàm, người Chà Và cho đều chia ở các xứ Man dưới yên nghiệp làm ăn). Vua bèn cho tỉnh ấy, tư bảo Man trưởng ấy tự đi bắt lấy mà trị tội. Tân Dậu, Tự Đức năm thứ 14 [1861], Con của Ong Giun, Quốc vương Cao Miên, 2 người (Ong Bướm, Ong Lằn) tranh nhau lên làm vua, trong nước rối loạn. Những lái buôn người nước Thanh lánh về bảo Bình Di, xin ở đấy buôn bán chịu thuế. Vua nói : Bọn ấy vì lánh nạn mà tới ở, miễn thuế cho.
edited Sep 22 '19 lúc 11:12 am
365
4
1
xem trước trực tiếp
nhập ít nhất 10 ký tự
Cảnh báo: You mentioned %MENTIONS%, but they cannot see this message and will not be notified
Đang lưu...
Đã lưu
Trạng thái
With đã chọn deselect posts xem các bài viết đã chọn
All posts under this topic will be đã xóa ?
Đang còn lưu nháp ... Click để sửa đổi lại
Xóa lưu nháp